Nuôi tôm nước lợ: Nên hướng đến mô hình kinh tế hợp tác

Chưa có đánh giá về bài viết

Những năm qua, các tỉnh ven biển ĐBSCL đã từng bước nâng cao sản lượng, giá trị tôm nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên, hiệu quả nuôi tôm nước lợ chưa bền vững, sản xuất còn nhỏ lẻ, tự phát…, dễ xảy ra dịch bệnh.

Chưa bền vững vì sao?

Hàng năm, ĐBSCL thả nuôi gần 600.000 ha tôm nước lợ, sản lượng đạt trên 800.000 tấn. Tuy nhiên, năm 2011, ĐBSCL thiệt hại trên 97.691 ha, chiếm 17% diện tích tôm nuôi nước lợ. Đến tháng 6/2012, toàn ĐBSCL đã thả nuôi khoảng 575.721 ha nhưng có 37.233 ha bị thiệt hại, chiếm trên 6% diện tích nuôi… Nguyên nhân chính là do nhiều hộ nôn nóng thả nuôi, chưa tuân theo lịch thời vụ, quy trình kỹ thuật; con giống chưa được kiểm dịch trước khi thả nuôi. Trong cải tạo ao, có hộ còn giữ thói quen sử dụng thuốc có nguồn gốc từ thuốc bảo vệ thực vật gây tồn lưu độc tố, xử lý ao nuôi không đảm bảo yêu cầu, tùy tiện xả nước thải chưa xử lý gây ô nhiễm môi trường, bơm bùn ra kênh rạch…

Các hộ nuôi chưa xem trọng tính liên kết trong sản xuất, chưa thấy hết vai trò quan trọng của mô hình kinh tế hợp tác (KTHT) nên chưa tự nguyện tham gia hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT); có thói quen nuôi theo thời vụ, thiếu thông tin thị trường đầu ra sản phẩm. Do vậy, nguy cơ dịch bệnh, gây thiệt hại cho người nuôi trên diện rộng là lớn.

Hiệu quả nuôi tôm nước lợ chưa bền vững, dễ xảy ra dịch bệnh – Ảnh: Thanh Nhã

HTX là có thể mang đến nhiều nguồn lợi: giúp nông dân tiêu thụ hàng hoá dễ dàng, có kế hoạch với chi phí giảm, giá cả hợp lý, buôn bán văn minh, tiêu chuẩn hoá sản phẩm ở mức cao, tạo thế cạnh tranh tốt cho nông dân cả khi mua và khi bán hàng hoá; liên kết nông dân sử dụng hết công suất máy móc, chi phí sản xuất thấp; đào tạo năng lực tự quản lý, năng lực áp dụng kỹ thuật tiên tiến cho nông dân, chống chọi những biến động của cơ chế thị trường. Thực nhiều nước đã khẳng định hiệu quả mô hình KTHT.

Có nhiều nguyên nhân gây thiệt hại tôm ở ĐBSCL, như: môi trường bị ô nhiễm, con giống kém chất lượng, ý thức cộng đồng trong việc tuân thủ lịch thời vụ và bảo vệ nguồn nước chưa cao… Các nguyên nhân trên đều liên quan đến hệ quả của việc phát triển mô hình KTHT trong nuôi tôm.

Ở ĐBSCL, một số ngành tỉnh và huyện chưa có cán bộ chuyên trách lĩnh vực kinh tế tập thể (KTTT), từ đó còn lúng túng trong việc chỉ đạo kịp thời, sâu sát khu vực kinh tế này. Một số nơi thiếu quan tâm công tác quản lý nhà nước về HTX và THT; đặc biệt là việc thực hiện các chính sách hỗ trợ HTX, chính sách dồn điền, đổi thửa, tuyên truyền Luật HTX; do vậy sự tác động chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến dân chưa nhiều. Từ đó, mô hình KTHT trong lĩnh vực nuôi tôm ở ĐBSCL tăng trưởng thiếu tính ổn định, hiệu quả chưa cao; vốn điều lệ sản xuất – kinh doanh và cán bộ quản trị điều hành HTX còn thiếu và yếu; các HTX chưa liên kết chặt chẽ với nhau, chưa phát huy vai trò, hiệu quả để đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường… Các tổ nhóm hợp tác dễ thành lập nhưng cũng mau tan vỡ, hiệu quả kém; nhiều nơi không nắm được chính xác số liệu tổ nhóm hợp tác, từ đó buông lỏng quản lý. Phần lớn người dân chưa nhận thức sâu sắc được vai trò, ý nghĩa của KTHT.

 

Giải pháp cơ bản lâu dài

Để ngành nuôi tôm bền vững, cần phát huy hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với mô hình KTHT. Theo đó, các địa phương cần tiếp tục củng cố Ban chỉ đạo đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, lựa chọn cán bộ có năng lực, trình độ, tâm huyết, uy tín cơ cấu vào ban chỉ đạo, khảo sát nắm rõ tình hình hoạt động của HTX và nhất là các HTX, THT trong nuôi tôm, từ đó chỉ đạo các ngành và phối hợp các đoàn thể liên quan, tùy theo tình hình chất lượng hoạt động thực tế của HTX, THT mà có biện pháp hỗ trợ kịp thời, phù hợp cho hội viên (như: tập huấn kỹ thuật sản xuất, hỗ trợ về con giống, vay vốn, phòng chống dịch bệnh, tìm đầu ra cho sản phẩm).

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT kiểm tra mô hình hợp tác sản xuất tôm sú ở Trà Vinh

Quy hoạch lại vùng nuôi bài bản hơn, vì thực tế đã chứng minh, nơi nào có quy hoạch lại vùng nuôi, có hệ thống cấp nước riêng biệt thì nơi đó nuôi tôm ít rủi ro. Trên cơ sở đó, tập trung vận động hộ nuôi nhỏ lẻ vào HTX, THT, khuyến khích người dân dồn điền, đổi thửa, nhằm tăng tính liên kết hộ nuôi, tạo thuận lợi trong triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường, quyết tâm khắc phục tình trạng xử lý nước thải ao nuôi không đúng quy trình kỹ thuật, gây ô nhiễm môi trường như hiện nay.

Việc bồi dưỡng cán bộ quản trị điều hành HTX ngang tầm nhiệm vụ là hết sức cần thiết, góp phần phát triển mô hình KTHT bền vững. Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với phát triển KTHT về vốn; thực hiện miễn thuế thu nhập đối với các THT mới thành lập; triển khai đại trà bảo hiểm tôm nuôi; tăng cường vận động người nuôi tham gia bảo hiểm nuôi tôm; tạo điều kiện để các HTX, THT tích cực tham gia bảo hiểm nông nghiệp để góp phần giảm thiểu rủi ro; khuyến khích các mô hình hợp tác, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ, giữa doanh nghiệp chế biến tiêu thụ và người nuôi.

Cùng đó, Nhà nước cần có chế tài đủ mạnh, tạo sự liên kết bền vững giữa doanh nghiệp và HTX (hiện mới dừng ở hợp đồng cam kết giữa doanh nghiệp với HTX); đổi mới chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi cho người dân dồn điền, đổi thửa. Cần đổi mới phương thức tuyên truyền để giúp người dân thay đổi nhận thức, tư duy cách làm ăn mới, tự nguyện tham gia mô hình KTHT trong nuôi tôm.

>> Tổng diện tích tôm nuôi ở ĐBSCL hàng năm khoảng 602.416 ha, chiếm 91,8% diện tích nuôi tôm cả nước, sản lượng tôm nguyên liệu đạt 368.983 tấn chiếm, 74,4% sản lượng nuôi trồng cả nước, giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 1,8 tỷ USD.

Nguyễn Thanh Sơn

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!