Quảng Bình: Hiệu quả những con “tàu 67”

Chưa có đánh giá về bài viết

Là một trong những địa phương thực hiện hiệu quả Nghị định 67 của Chính phủ; đã có rất nhiều “tàu 67” của tỉnh Quảng Bình được đóng mới ra khơi thu lợi nhuận khả quan, ngư dân yên tâm khai thác, bảo vệ biển cả.

“Tàu 67” của ngư dân Quảng Bình   Ảnh: Hạnh Châu

“Tàu 67” của ngư dân Quảng Bình Ảnh: Hạnh Châu

Thành quả mỗi chuyến ra khơi

Đến đầu tháng 5/2017, toàn tỉnh Quảng Bình có 55 “tàu 67” đi vào hoạt động, tổ chức sản xuất, khai thác 366 chuyến biển có hiệu quả, nhất là nghề chụp mực, câu và nghề lưới vây. Tổng doanh thu đạt 82,4 tỷ đồng. Các chủ tàu đưa tàu vào khai thác đều chấp hành tốt việc trả nợ gốc, lãi vay để đầu tư đóng tàu theo đúng kỳ hạn cam kết với các ngân hàng. Hiện, ngư dân đã trả nợ gốc cho ngân hàng được 3,17 tỷ đồng, ngoài ra còn trả hàng chục tỷ đồng tiền lãi.

Anh Nguyễn Văn Dương (thôn Sa Động, xã Bảo Ninh, TP Đồng Hới) 38 tuổi, nhưng đã có 24 năm đi biển, cho biết, khi có Nghị định 67 của Chính phủ, anh quyết định bán con tàu vỏ gỗ nhiều năm gắn bó để đóng chiếc tàu vỏ thép công suất 850 CV với trị giá gần 23 tỷ đồng. Trong khi con tàu được thi công, anh em Dương nhiều lần ra vào để giám sát và đề nghị thay thế các hạng mục trên tàu cho phù hợp với đặc điểm đánh bắt ở Quảng Bình. Ngay chuyến đi biển đầu tiên vào tháng 4, anh Dương thu khoảng 300 triệu đồng, chuyến biển đầu tháng 5 vừa qua, đạt doanh thu 740 triệu đồng. Anh Dương cho biết, trong chuyến biển đầu tháng 5, anh và 12 ngư dân bám ngư trường Hoàng Sa để đánh bắt bằng nghề chụp mực. Do tàu có các thiết bị phục vụ khai thác hải sản hiện đại và trang bị vàng lưới dài hơn, cho nên, đánh bắt hiệu quả hơn. Kết quả sau 12 ngày vươn khơi, tàu anh thu 15 tấn mực, 30 tấn cá nục suôn và nhiều loại hải sản khác.

Cuối năm 2016, tàu cá vỏ thép công suất 829 CV của ông Nguyễn Chiến Trường (thôn Cồn Sẻ, xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn) đóng theo Nghị định 67 được hoàn thành. Đến nay, tàu cá này đã thực hiện 5 chuyến biển. Chuyến đầu, do thuyền viên mới làm quen với tàu, cho nên doanh thu chỉ đạt 200 triệu đồng, đến chuyến đầu tháng 4 vừa qua đạt 600 triệu đồng và chuyến mới rồi đạt gần 500 triệu đồng. Ông Nguyễn Chiến Trường chia sẻ: “Tàu của tôi đánh bắt hải sản bằng nghề lưới rê, trước đây, vàng lưới rê thông thường chỉ dài 8 km nhưng từ khi có tàu vỏ thép, ngư dân đầu tư vàng lưới dài khoảng 18 km, lắp thêm tời thủy lực thu lưới…, vì vậy, đánh bắt hiệu quả hơn”.

Tiếp tục tháo gỡ

Một trong những khó khăn trong hoạt động khai thác thủy sản hiện nay ở Quảng Bình nói riêng và nhiều tỉnh, thành ven biển nói chung chúng là hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng được. Ông Phan Văn Khoa, Giám đốc Sở NN&PTNT Quảng Bình cho biết, trong khi đội tàu xa bờ ngày càng được đầu tư phát triển với số lượng lớn thì ngược lại, hạ tầng nghề cá càng bị tụt hậu. Ở các tỉnh miền Trung nói chung, Quảng Bình nói riêng, hiện nhiều cửa biển bị bồi lắng, tàu vỏ gỗ vào ra đã khó, nay tàu vỏ thép càng khó khăn hơn.

Trong số năm cửa biển, chỉ còn duy nhất cửa Sông Gianh là tàu vỏ thép còn ra vào, neo đậu được. Tuy nhiên, hiện cảng cá đang quá tải, gây nhiều khó khăn cho ngư dân. Chính vì lý do này mà gần một nửa trong số 237 tàu xa bờ của xã Đức Trạch, huyện Bố Trạch phải “tá túc” ở cảng cá Cửa Việt (Quảng Trị) hoặc Thọ Quang (Đà Nẵng)… Chủ tịch UBND xã Đức Trạch Hồ Đăng Chiến chia sẻ, với 237 tàu đánh bắt vùng biển xa, chỉ riêng một chuyến đi phải mua hơn 30 tỷ đồng tiền dầu, chưa kể các khoản chi phí khác. Vì vậy, cửa biển bị bồi lắng, cảng cá tại Quảng Bình quá tải là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất thu rất lớn trong lĩnh vực hậu cần nghề cá của địa phương.

 Trong quá trình sản xuất, các chủ “tàu 67” còn gặp nhiều khó khăn khác. Đối với tàu vỏ thép, do ngư dân chưa có kinh nghiệm thực tiễn, cho nên khi chọn mẫu thiết kế và chủng loại vật tư, vật liệu chủ yếu theo tư vấn thiếu kỹ càng. Khi tàu đi vào hoạt động, ngư dân phải mua sắm, thay thế các vật tư, vật liệu cho phù hợp với thực tế đi biển, phát sinh chi phí khá lớn, ảnh hưởng khả năng trả nợ của chủ tàu.

Ngư dân Nguyễn Văn Dương (xã Bảo Ninh, TP Đồng Hới) cho biết, để con tàu của mình ra khơi, bảo đảm an toàn và hiệu quả, gia đình phải bỏ ra hơn 500 triệu đồng để thay thế một số bộ phận, thiết bị không phù hợp trên tàu, như: Tăng chiều dài tăng gông, cải tiến hệ thống tời, đầu tư vàng lưới mới dài và sâu hơn. Ngoài ra, nhiều chủ tàu còn đầu tư trang bị thêm các thiết bị hiện đại, như: máy dò ngang 360 độ với trị giá hơn 1,6 tỷ đồng, lắp thêm tời thủy lực thu lưới… để nâng hiệu quả đánh bắt.

Mặt khác, khó khăn rất lớn đối với ngư dân bấy lâu nay là thiếu vốn lưu động (nguồn vốn đầu tư cho phi chí, sinh hoạt của ngư dân cho những chuyến đánh bắt dài ngày trên biển và thu mua nguyên liệu thủy sản của doanh nghiệp). Có người còn gọi đó là đồng “vốn nóng” vì nó luôn cần và giải quyết kịp thời các nhu cầu bức thiết của ngư dân, nhưng họ lại phải chạy vốn cho từng chuyến đi biển.

Theo phản ánh của ngư dân, chi phí cho chuyến biển đối với tàu vỏ thép cao gấp rưỡi tàu vỏ gỗ. Nhiều ngư dân thiếu vốn lưu động, phải “vay nóng” các chủ “nậu cá”. Do phải vay với lãi suất “nóng”, nên đã làm giảm hiệu quả sản xuất, ảnh hưởng đời sống lao động trên tàu. Trong khi, thủ tục vay vốn của ngân hàng lại quá phức tạp và có một số đơn vị cũng không mặn mà cho vay.

>> Ông Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Quảng Bình: Thực hiện Nghị định 67, Quảng Bình luôn được xem là một trong những tỉnh đi đầu trong việc vận dụng và phát huy thế mạnh của chủ trương này để tạo điều kiện tốt cho ngư dân ra khơi khai thác. Đến nay, toàn tỉnh có 85 tàu mới (tổng số vốn đầu tư đóng mới hơn 1.242 tỷ đồng, trong đó, vốn vay gần 990 tỷ đồng), đã có 29 tàu vỏ thép đang hoạt động có hiệu quả.

Hạnh Châu

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!