Thủy sản nước ngọt: Thách thức phát triển bền vững

Chưa có đánh giá về bài viết

Thủy sản nước ngọt đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống; góp phần bảo đảm một phần dinh dưỡng từ thủy sản cho người dân; là sinh kế của nhiều ngư dân nghèo ở các vùng ven sông, hồ. Nhưng để phát triển bền vững, nuôi thủy sản nước ngọt cần vượt qua những thách thức không nhỏ.

Cần nhiều đầu tư để nuôi thủy sản nước ngọt phát huy lợi thế  Ảnh: Quang Quyết

Cần nhiều đầu tư để nuôi thủy sản nước ngọt phát huy lợi thế Ảnh: Quang Quyết

Phát triển bền vững

Việt Nam có nhiều điều kiện phát triển thủy sản nước ngọt (nội đồng) do có nhiều sông, suối, hồ chứa… Như tại các tỉnh phía Bắc có địa hình tự nhiên đa dạng, có thể phát triển nhiều loại hình nuôi thủy sản như nuôi lồng bè trong hồ chứa, sông suối, nuôi ao, nuôi kết hợp trong ruộng lúa… và đa dạng đối tượng nuôi, phát triển các thủy sản đặc sản, có giá trị. Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2016, diện tích nuôi trồng thủy sản của các tỉnh phía Bắc là 205.253 ha, giảm 9,75% so năm 2015, trong đó nuôi nước ngọt đạt 157.767 ha (giảm 11,05%). Phát huy tiềm năng và lợi thế nuôi cá nước ngọt, người dân các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc đã lựa chọn nuôi những giống chất lượng như cá trôi, trắm, chép, rô phi đơn tính, điêu hồng, cá lăng… cho hiệu quả kinh tế cao. Tuy chưa tạo thành hàng hóa tập trung nhưng mang lại hiệu quả xã hội rất lớn như cung cấp sản phẩm tại chỗ, cải thiện đời sống cho đồng bào miền núi còn nhiều khó khăn, tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư, giải quyết việc làm, giảm tệ nạn phá rừng.

Tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên, cá nước lạnh được nuôi tại một số tỉnh như Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Bình Thuận, Bình Định đem lại hiệu quả kinh tế cao. Theo thống kê, đã có khoảng hơn 100 cơ sở tại 22 tỉnh, thành phố nuôi cá nước lạnh, tập trung nhiều nhất tại các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên, điển hình là Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Lâm Đồng, Bình Thuận… Diện tích nuôi cá nước lạnh khu vực  này hơn 55 ha (chiếm 85% cả nước), năng suất bình quân 19,27 tấn/ha (năm 2012 bình quân đạt 13,5 tấn/ha) và năm 2017, sản lượng hơn 1.000 tấn, chiếm khoảng 70% sản lượng cá nước lạnh cả nước.

Vùng ĐBSCL có khoảng 750 km chiều dài bờ biển (chiếm khoảng 23% tổng chiều dài bờ biển toàn quốc) với 22 cửa sông, cửa lạch và hơn 800.000 ha bãi triều (70 – 80% là bãi triều cao). Mùa khô độ mặn nước biển ven bờ cao 20 – 30%, mùa mưa 5 – 20%, thâm nhập mặn theo các sông nhánh vào nội đồng nhiều nơi đến 40 – 60 km. Điều kiện như vậy đã tạo nên những vùng đất ngập nước quy mô lớn với bản chất lầy mặn và đa dạng về kiểu môi trường sinh thái (mặn, lợ, ngọt). Về nuôi nước ngọt, Bộ NN&PTNT đã công bố quy hoạch diện tích nuôi cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2020 là 7.260 ha theo tiêu chuẩn VietGAP; Diện tích này được phát triển tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh và Hậu Giang.

Nhiều bất cập

Đó chính là vấn đề ô nhiễm môi trường vùng nuôi trên sông, hồ, đầm, phá; nhiều vùng hồ chứa chưa được khai thác hợp lý để nuôi trồng. Vấn đề quy hoạch và quản lý quy hoạch còn bấp cập, chất lượng con giống chưa có nhiều cải thiện, thị trường tiêu thụ còn gặp nhiều khó khăn do phần lớn sản phẩm thủy sản nước ngọt tiêu thụ nội địa. Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, nhiều địa phương còn chưa phát huy được hết lợi thế, nhất là sử dụng nguồn nước từ các hồ chứa thủy lợi, thủy điện phục vụ cho phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt; chưa xác định được đối tượng nuôi chủ lực và chưa có quy hoạch phát triển theo hướng hàng hóa xuất khẩu.

Mặc dù, nuôi thủy sản nước ngọt các tỉnh phía Bắc phát triển mạnh trong những năm qua, nhưng do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết bất thường, khó lường, mưa lũ, lũ quét, lũ ống thường xuyên xảy ra khiến cho người nuôi luôn đối mặt với nhiều khó khăn, bất lợi. Ngoài ra, địa hình đồi núi hiểm trở, giao thông không thuận lợi, khiến việc tiêu thụ sản phẩm khó khăn. Trong khi, diện tích nuôi thủy sản chủ yếu trong các hộ gia đình nhỏ lẻ, manh mún, dịch vụ hậu cần nghề cá chưa được đầu tư tương xứng, vì vậy chưa tạo thành vùng sản xuất tập trung để có nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu, mà chủ yếu vẫn phục vụ tiêu dùng nội địa.

Giải pháp phát triển

Lợi thế cho phát triển các diện tích nuôi thủy sản nước ngọt còn rất lớn, nhất là tại các địa phương có nhiều tiềm năng để mở rộng sản xuất hàng hóa tập trung, nhất là các đối tượng có giá trị kinh tế cao.

Với vấn đề con giống, các cơ sở sản xuất giống thủy sản, các doanh nghiệp tập trung quản lý tốt chất lượng con giống, thức ăn; có kế hoạch và đầu tư về con giống bố mẹ đạt chuẩn thay thế nguồn giống tự nhiên của một số loài thủy sản đặc sản đang có nguy cơ tuyệt chủng. Nâng cao chất lượng giống bản địa, giống truyền thống; từng bước đưa các loài giống mới, giống có chất lượng cao, giống nhập ngoại vào nuôi để nâng cao năng suất, sản lượng và nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm. Ông Võ Văn Bé, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng cho biết, khó khăn nhất của nghề nuôi thủy sản nước ngọt là chủng loại và diện tích ao nuôi chưa tập trung và đồng bộ, trong khi, muốn ký kết hợp đồng tiêu thụ thì phải có sản lượng lớn, chất lượng đảm bảo. Bên cạnh đó, yếu tố con giống phải đáp ứng được nhu cầu của người dân, đây là những việc mà ngành thủy sản sắp tới sẽ phải chú trọng thực hiện.

Còn ông Nguyễn Khắc Tân, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Phú Yên thì kiến nghị, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và khuyến khích đầu tư sản xuất giống thủy sản nước ngọt ngay tại địa phương nhằm tạo sự chủ động cho việc nuôi thủy sản nước ngọt thương phẩm. Về phía người nuôi cần tạo mối liên kết bền vững với các nhà hàng, siêu thị, nhà máy chế biến, xuất khẩu. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản nước ngọt. Quan tâm đến việc đẩy mạnh hệ thống dịch vụ cung ứng các nhu cầu vật tư, thức ăn và các sản phẩm liên quan phục vụ nuôi thủy sản nước ngọt. Chú trọng thúc đẩy hoạt động của các cơ quan chuyên môn chuyên ngành thủy sản, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, phổ biến kỹ thuật và thông tin kinh tế thị trường liên quan về thủy sản nước ngọt cho bà con ngư dân, nhân rộng các điển hình nuôi thủy sản nước ngọt tiên tiến để mọi người dân áp dụng có hiệu quả.

Nuôi thủy sản theo hướng an toàn sinh học cũng là giải pháp cần hướng đến và phát triển để tạo sự ổn định và bền vững cho các đối tượng thủy sản nước ngọt. Như chia sẻ của Bà Ngô Thị Kim Cương, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến ngư nông lâm TP Đà Nẵng, đây là hướng đi tất yếu trong giai đoạn hiện nay; bởi việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi cá nước ngọt sẽ rút ngắn thời gian nuôi, giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh, tạo ra sản phẩm an toàn mà còn tiến tới phát triển thủy sản bền vững.

>> Năm 2017, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đã đồng ý nguyên tắc thực hiện Dự án “Điều tra nguồn lợi thủy sản vùng nội đồng” giai đoạn 2018 – 2020. Theo đó, giao Bộ NN&PTNT chủ động làm việc với các Bộ Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư xác định nguồn kinh phí thực hiện dự án phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành; tiến hành sơ kết tình hình thực hiện Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2020, đặc biệt là tình hình triển khai các dự án ưu tiên; trên cơ sở đó, đánh giá các kết quả đạt được, hiệu quả của Chương trình.

Nhóm PV

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!