Theo Bộ NN&PTNT, Việt Nam có nhiều vùng vịnh kín, bãi triều ven biển và một phần ở các hải đảo, vùng biển xa bờ. Tổng diện tích tiềm năng nuôi biển ở nước ta khoảng 500.000 ha; trong đó, nuôi vùng bãi triều ven biển 153.300 ha; nuôi vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo 79.790 ha; nuôi vùng biển xa bờ 100.000 ha. Một số đối tượng chính được đưa vào phát triển như cá song, cá giò, cá hồng, cá vược, cá tráp, cá chim vây vàng, cá ngừ, cá măng biển…
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chính sách khuyến khích phát triển nuôi hải sản trên biển và hải đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng hải sản trên biển. Điển hình là Đề án phát triển nuôi thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1664/QĐ-TTg, ngày 4/10/2021. Đề án sẽ hướng tới việc từng bước khuyến khích ngư dân khai thác để chuyển sang nuôi biển, giảm áp lực khai thác thủy sản ven bờ; tăng quy mô, năng suất, sản lượng, đảm bảo vệ sinh ATTP và tạo việc làm, thu nhập của cư dân ven biển.
Mặc dù rất giàu tiềm năng cho sự phát triển, nhưng theo Tổng cục Thủy sản, thực tiễn sản xuất cho thấy, nuôi biển nói chung và cá biển nói riêng còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch chi tiết, điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế, trình độ kỹ thuật sản xuất của người dân chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ trong sản xuất giống còn hạn chế; công nghệ sản xuất chưa chủ động hoàn toàn. Công nghệ nuôi và hệ thống lồng bè thích ứng với thời tiết Việt Nam chưa phát triển. Một số đối tượng nuôi chưa có quy trình chuẩn hoặc chưa được nghiên cứu thử nghiệm. Sử dụng cá tạp làm thức ăn, dễ gây ô nhiễm môi trường. Vốn đầu tư lớn, thời gian nuôi dài; sự tham gia của các doanh nghiệp lớn còn hạn chế. Lao động tham gia nuôi cá lồng trên biển thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm trong vận hành và hạn chế về ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường.