(TSVN) – Thay thế một phần Artemia sống bằng thức ăn khô không tác động tiêu cực đến năng suất và chất lượng tôm giống, đồng thời tiết kiệm 10% chi phí thức ăn.
Các trại giống cần khoảng 3,4 kg trứng Artemia và 8kg thức ăn khô để sản xuất một triệu ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Hai thành phần thức ăn này có chi phí trung bình 480 – 520 USD/triệu tôm post. Trứng Artemia có giá cao hơn 350% so với thức ăn khô và tốn thêm chi phí ấp thành ấu trùng nauplii. Do đó, thay thế Artemia bằng thức ăn khô là phương pháp giảm chi phí sản xuất tôm giống nếu không tác động tiêu cực đến năng suất và chất lượng tôm giống.
Trung tâm thử nghiệm thức ăn tôm giống Growel đã đánh giá hiệu quả và tính kinh tế khi thay thế 25% Artemia bằng 25% thức ăn khô. Thử nghiệm được thực hiện trong bể với hai mật độ thả tôm post khác nhau gồm 60 PL/L và 80 PL/L. Thử nghiệm sử dụng thức ăn tôm giống Growel Origin® do hãng Growel Feeds Private Limited sản xuất tại Ấn Độ.
Trung tâm Growel nằm trong khuôn viên trại giống thương mại gần Ongole, Andhra Pradesh, Ấn Độ. Trung tâm có 25 bể nhựa hình chữ U thể tích 140L, là mô hình thu nhỏ của bể xi măng hình chữ nhật thường gặp trong các trại giống. Các bể được sục khí liên tục qua ống PVC 25mm dưới đáy bể và nối với máy thổi đầu sò 1HP.
Nước mặn được dẫn qua máy lọc UF (<0,5µm) trước khi vào trong bể. Trung tâm Growel lựa chọn ấu trùng tôm thẻ (PL3) sạch bệnh (SPF) từ một đơn vị sản xuất thương mại. Thả tôm vào bể theo mật độ 8.000 hoặc 11.500 PL/bể, tương ứng 60 PL/L và 80 PL/L. Cho tôm ăn 6 lần/ngày, mỗi lần cách nhau 4 tiếng. Khẩu phần ăn gồm ấu trùng nauplii sống và thức ăn khô cho trại giống Growel Origin.
Ở mỗi mật độ thả giống, trung tâm Growel thực hiện 2 quy trình cho ăn: Quy trình tiêu chuẩn được áp dụng ở hầu hết các trại giống; và Quy trình thử nghiệm (giảm 25% Artemia và thay bằng 25% Growel Origin). Trung tâm sử dụng 2 kích cỡ thức ăn Growel Origin: 150µm cho tôm post PL7 và 300µm cho tôm post PL5.
Độ mặn giảm dần 3ppt/ngày, từ 30 xuống 5ppt vào ngày thu hoạch cuối cùng để tôm giống thích nghi với độ mặn thấp khi thả vào ao. Thu thập 20 tôm post mỗi ngày để đánh giá chiều dài chủy, chiều dài cơ thể, và tỷ lệ cơ ruột.
Khi ấu trùng tôm phát triển đến giai đoạn PL12, các bể được thu hoạch toàn bộ để đánh giá tỷ lệ sống (%), chiều dài PL trung bình (mm) và sinh khối (g). Ngoài ra, thu thập 20 tôm giống mỗi bể để đánh giá khả năng chịu căng thẳng. Ấu trùng tôm sau mỗi lần xử lý được đóng gói trong túi nhựa chứa ôxy và để trong 12 giờ trước khi đánh giá tỷ lệ sống.
Trong thử nghiệm thứ 2, chuyển ấu trùng tôm trong nước mặn 5ppt sang 30ppt trong 30 phút, sau đó chuyển lại nước ngọt trong 30 phút để đánh giá hoạt động bơi của ấu trùng, sự thay đổi màu sắc và tỷ lệ chết.
Trong thời gian thử nghiệm 11 ngày, các thông số chất lượng nước vẫn nằm trong phạm vi tối ưu đối với ấu trùng tôm, và không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức (nhiệt độ 30 – 320C, pH 8,1 và tổng nitơ amoniac 2 – 3 mg/L).
Tỷ lệ sống, chiều dài và trọng lượng của tôm post luôn duy trì giá trị cao trong tất cả các nghiệm thức. Trong nhóm tôm giống được cho ăn theo quy trình tiêu chuẩn, tỷ lệ sống của nhóm 60 PL/L cao hơn một chút so với nhóm 80 PL/L.
Tổng chiều dài trung bình của tôm giống khi thả ở mật độ 60 PL/L cao hơn so với nhóm tôm 80 PL/L. Trọng lượng cơ thể trung bình cao nhất được ghi nhận ở mức 8,95 mg/PL ở nhóm tôm 60 PL/L và được cho ăn theo quy trình giảm Artemia và tăng thức ăn khô.
Kết quả từ các thử nghiệm căng thẳng cho thấy tỷ lệ sống của tôm post đạt trên 95% ở cả hai đợt kiểm tra. Tôm không có dấu hiệu căng thẳng nào khi được chuyển từ nước mặn 5 ppt sang 30 ppt và quay lại nước ngọt. Hành vi bơi lội của ấu trùng tôm giữa các nghiệm thức cũng không có sự khác biệt đáng kể. Nhìn chung, tôm tích cực bơi ngược dòng, khỏe mạnh và không bị căng thẳng.
Giảm 25% Artemia, đồng thời tăng 25% thức ăn khô giúp tiết kiệm 24 – 25 USD/triệu PL, tương ứng 10% chi phí thức ăn.
Mặc dù nhóm tôm được thả ở mật độ 60 PL/L đạt hiệu suất nhỉnh hơn so với nhóm 80 PL/L, nhưng nhóm 80 PL/L vẫn đạt hiệu suất trong ngưỡng chấp nhận được khi được cho ăn theo quy trình tiêu chuẩn và đạt hiệu suất vượt trội khi cho ăn theo quy trình giảm 25% Artemia và tăng 25% thức ăn khô Growel Origin.
Quan trọng hơn, chi phí thức ăn để sản xuất 1 triệu tôm PL sẽ thấp hơn khi tôm được thả ở mật độ cao hơn, vì thức ăn hoặc ấu trùng
Artemia trong nước phải có mật độ đủ cao để tôm giống có thể dễ dàng tìm thấy thức ăn. Hầu hết các chi phí khác để sản xuất tôm giống cũng thấp hơn khi mật độ thả giống cao hơn, miễn là năng suất trên môi bể (chủ yếu do tỷ lệ sống) hoặc chất lượng tôm giống không bị ảnh hưởng tiêu cực.
Trung tâm Growel kết luận, mật độ thả giống cao hơn 80 PL/L vẫn mang lại hiệu suất tốt nếu trại giống sử dụng thức ăn khô thay thế Artemia và quản lý tốt. Giảm 25% Artemia sống và thay thế bằng cách tăng thêm 25% thức ăn khô không gây bất kỳ tác động tiêu cực tới chất lượng nước, tỷ lệ sống, tăng trưởng hoặc khả năng chịu căng thẳng của tôm PL3 và PL12 ngày cả khi tôm được thả ở mật độ 80 PL/L. Chiến lược dinh dưỡng này giúp tiết kiệm 10% chi phí thức ăn cho trại giống.
Dũng Nguyên
Theo Asia Aquaculture