(TSVN) – Thái Lan phát triển công nghệ phun chất lỏng sau ép viên để cải thiện chất lượng thức ăn tôm, giúp giữ nguyên hoạt tính phụ gia nhạy nhiệt và nâng cao giá trị dinh dưỡng.
Ở châu Á, công nghệ phun chất lỏng sau ép viên (PPLA – Post-Pelleting Liquid Application) đã được sử dụng phổ biến cho thức ăn cá dạng đùn, nhưng hiệu quả áp dụng trên thức ăn viên cho tôm vẫn còn nhiều tranh cãi.
Trong quy trình sản xuất, viên thức ăn tôm và cá có thể đạt nhiệt độ lần lượt 100°C và 120 °C khi ép hoặc đùn. Các phụ gia nhạy nhiệt cần được bổ sung sau công đoạn tạo viên thay vì pha trộn ngay từ đầu, nhằm tránh mất hoạt tính.
PPLA giúp bảo toàn hoạt tính của enzyme, vitamin và các phụ gia nhạy nhiệt, đồng thời tăng khả năng hấp thụ. Ứng dụng công nghệ này cho thức ăn viên tôm không chỉ nâng cao giá trị dinh dưỡng mà còn cho phép tích hợp probiotic, giảm nhu cầu bổ sung phụ gia trực tiếp xuống ao nuôi.
Bước ngoặt công nghệ với mô hình PPLA cải tiến
DSM-Firmenich đã phát triển mô hình PPLA mini chuyên dụng cho sản xuất thức ăn tôm, nhằm giới thiệu tới các nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi. Công nghệ phủ hai lớp giúp định lượng phụ gia chính xác ngay cả ở tốc độ dòng chảy thấp, với khả năng phun phủ 360 độ đều khắp bề mặt viên thức ăn. Hệ thống tự động hoàn toàn, phân phối phụ gia chính xác và dễ lắp đặt trong cả nhà máy mới lẫn hiện có nhờ thiết kế nhỏ gọn, linh hoạt.
Tại Trung tâm Ứng dụng và Dinh dưỡng Thủy sản (ANAC) ở Thái Lan, mô hình này xử lý các mẻ thức ăn từ 10-80 kg, sử dụng áp suất khí để đảm bảo phụ gia được phân bố đồng đều. Hệ thống có công suất 50 tấn/giờ và có thể đạt 60-100 tấn/giờ khi tăng dung lượng đầu vào, dễ dàng tích hợp vào dây chuyền sản xuất sẵn có.
Ông Chiow-Yen Liew, Giám đốc Tiếp thị Ngành Nuôi trồng Thủy sản khu vực Châu Á – Thái Bình Dương mở rộng, cho biết: “Việc bổ sung các thành phần nhạy cảm với nhiệt như probiotic, enzyme phytase, carbohydrase và protease là rất cần thiết để nâng cao khả năng tiêu hóa, hiệu suất sử dụng và hấp thu dinh dưỡng của tôm. Enzyme phytase còn giúp giải phóng phốt pho sinh khả dụng, giảm tác động môi trường của thức ăn. Công thức cũng bổ sung chất khử độc chứa enzyme FUMzyme®, có khả năng phân giải fumonisin thành các chất không độc.”
Ông Liew nhấn mạnh thêm: “Dù trên thị trường đã có nhiều hệ thống PPLA, điểm khác biệt của chúng tôi là khả năng phủ đồng thời nhiều thành phần nhạy nhiệt, sau đó mới phun lớp phủ gốc dầu hoặc nước mà vẫn giữ nguyên tính chất vật lý của viên thức ăn.”
Lợi ích chi phí
Ông Liew cho biết công nghệ PPLA mang lại tính linh hoạt trong lựa chọn nguyên liệu và tối ưu giá trị dinh dưỡng của thức ăn, giúp ngành dễ thích ứng khi giá cả biến động và tận dụng nguồn nguyên liệu địa phương. Lợi ích trên toàn chuỗi giá trị bao gồm thức ăn dễ tiêu hóa hơn, hiệu quả hơn và giảm thải nitơ, phốt pho ra môi trường ao nuôi.
Abung Simanjuntak, Quản lý Kỹ thuật Khu vực APAC tại Indonesia, cho hay chính phủ nước này đang siết quy định về hàm lượng phốt pho trong thức ăn thủy sản để ngăn ngừa phú dưỡng nước. Việc ứng dụng enzym hiệu quả giúp giảm nhu cầu phốt pho vô cơ, góp phần phát triển nuôi thủy sản bền vững. Nông dân hiện đã chủ động bổ sung probiotic trực tiếp tại trại, trong khi các nhà máy thức ăn muốn tích hợp probiotic ngay từ khâu sản xuất nhờ công nghệ PPLA. Ngoài ra, vấn đề nhiễm độc tố nấm mốc trong thức ăn cũng là mối quan ngại lớn.
Tiến sĩ Fidelis Fru, Phó Chủ tịch cấp cao kiêm Trưởng Bộ phận Phát triển Kinh doanh Toàn cầu của dsm-firmenich ANH, cho biết công ty cung cấp công nghệ này theo giá gốc thông qua hợp tác, đồng thời hỗ trợ ứng dụng và nghiên cứu tích hợp các nguyên liệu mới như protein đơn bào, bột côn trùng và bột tảo mà không phát sinh thêm chi phí. Ông nhấn mạnh mục tiêu là nâng cao hiệu suất chuyển hóa dinh dưỡng trong thức ăn thành protein nuôi trồng thủy sản bằng enzym, carotenoid, chất kết dính độc tố, probiotic và postbiotic, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hơn với tác động sinh thái tối thiểu.
Vũ Đức
Theo Asia Aquaculture