(TSVN) – Ương tôm giống là một bước quan trọng trong chu trình nuôi tôm, giúp nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo sự thành công của vụ nuôi.
Diện tích ao ương chiếm khoảng 0,5 – 1% diện tích nuôi, thông thường khoảng 50 – 100 m2. Bờ ao cao ít nhất 1 – 1,2 m để duy trì mực nước. Đáy ao được đầm nén chắc, phẳng, có góc nghiêng về hướng thoát, đảm bảo làm sao nước được tháo cạn khi cần rút hết nước (san tôm sau khi ương).
Thiết kế ao ương theo dạng ao nổi, có trải bạt đáy (chất liệu HDPE, các loại bạt nhựa tốt,…). Tùy điều kiện, ao ương cũng có thể làm bằng ao đất, tuy nhiên, cần phải đảm bảo các yêu cầu như trên.
Ao ương cần được che lưới lan nhằm hạn chế tối đa tia bức xạ ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp, làm cho nhiệt độ nước tăng lên ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Hệ thống sục khí hoặc quạt nước được trang bị đều khắp mặt ao suốt thời gian ương, mục đích chính là cung cấp đủ hàm lượng ôxy hòa tan cho tôm phát triển.
Quy trình cải tạo ao cơ bản bao gồm các bước tháo cạn nước, vét bùn, bừa lật, phơi nắng để chất bẩn dưới đáy ao tiếp xúc với ánh nắng nhiệt độ cao nhằm diệt các mầm bệnh, các chất lắng đáy tiếp xúc với ôxy và bị phân hủy. Tiếp theo là bón vôi xuống đáy ao để ổn định pH, sau đó là lấy nước vào ao diệt tạp, diệt khuẩn, gây màu nước và tiến hành thả giống.
Nước từ ao chứa bơm qua ao ương sau khi đã được diệt tạp, xử lý sát khuẩn (sử dụng một trong các hóa chất Chlorine: 10 – 15 g/m3; Virkon: 0,5 – 1 g/m3; Thuốc tím (KMnO4): 2 – 5 g/m3; Iodine ≥ 10%: 1 – 3 ml/m3,…) và điều chỉnh các yếu tố trong khoảng phù hợp (pH: 7,7 – 8,5; độ mặn: 5 – 15‰; độ kiềm: 80 – 120 mg/L,…). Mực nước thích hợp để ương tôm giai đoạn này là 0,8 – 1 m.
Màu nước giữ vai trò rất quan trọng trong nuôi tôm. Màu nước ao đạt chuẩn sẽ cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm trong giai đoạn mới thả nuôi, góp phần tạo sự thoải mái cho tôm săn mồi, giảm stress, ngăn ánh nắng mặt trời chiếu xuống đáy. Vì vậy, sau khi bơm nước vào ao ương, tiến hành bón phân (phân vô cơ NPK hoặc một số chế phẩm dinh dưỡng tổng hợp và khoáng chất) nhằm mục đích gây màu nước, tạo cơ sở thức ăn tự nhiên (tảo, động vật nổi, động vật đáy) phát triển phong phú trong ao ương.
Đồng thời, giai đoạn này có thể sử dụng thêm chế phẩm vi sinh (gồm chủng Bacillus sp., Lactobacillus sp.,…) ủ với mật rỉ đường (khoảng 12 giờ) để tăng hiệu quả gây màu nước, ổn định môi trường và ức chế một số vi khuẩn gây hại phát triển trong ao. Sau khi gây màu nước khoảng 2 – 3 ngày là có thể thả giống.
Chọn mua tôm giống thả nuôi từ các cơ sở sản xuất uy tín và thương hiệu, có đàn tôm bố mẹ đảm bảo chất lượng theo quy định; phải kiểm tra một số loại bệnh đặc trưng như MBV, đốm trắng, đầu vàng, taura, hoại tử gan tụy,… (có giấy kiểm dịch) trên tôm giống.
Kiểm tra tôm giống bằng cảm quan: Màu sáng, sắc tố thể hiện rõ, đôi râu khép lại, các đốt bụng thon, dài, cơ bụng căng đầy, thịt đầy vỏ, đầu và thân cân đối; tôm bơi khỏe ngược dòng nước, bám vào thành bể tốt; phản xạ tốt khi gõ vào dụng cụ chứa; phụ bộ tôm hoàn chỉnh, không có ký sinh trùng bám, đường ruột đầy thức ăn, không bị bệnh phát sáng.
Số lượng giống thả tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng cho mỗi đợt nuôi nhưng phải đảm bảo lịch thời vụ theo khuyến cáo của cơ quan chuyên môn. Mật độ ương dao động 500 – 1.000 con/m3 tùy điều kiện trang thiết bị và vật liệu làm ao ương.
Quá trình ương phải bổ sung thức ăn công nghiệp, cho ăn 3 – 4 lần/ngày. Liều lượng khoảng 1 kg thức ăn/100.000 con giống/ngày. Sau mỗi ngày tăng thêm 10 – 15% lượng thức ăn của ngày trước. Quan sát kỹ hoạt động của tôm, diễn biến thời tiết và chất lượng nước để điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý.
Định kỳ bổ sung men tiêu hóa, khoáng chất, vitamin và axit amin thiết yếu (Lysine, Methionine,…) trong khẩu phần ăn cho tôm theo liều lượng hướng dẫn.
Khi thời tiết thay đổi (mưa hoặc nắng liên tục, nhiệt độ cao,…) thì nên trộn thêm một số Vitamin C, Beta-glucan,… nhằm tăng sức đề kháng cho tôm chống chịu lại với điều kiện bất lợi bên ngoài.
Hàng ngày quan sát hoạt động, màu sắc, khả năng bắt mồi của tôm để đánh giá sức khỏe tôm nuôi chính xác. Nếu có biểu hiện bất thường cần xác định nguyên nhân (nếu cần thiết có thể thu mẫu tôm mang đi xét nghiệm bệnh) để có hướng xử lý kịp thời, hiệu quả.
Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường trong ao ương: nhiệt độ, pH, ôxy hòa tan (2 lần/ngày); độ kiềm, NO2, NH3/NH4 (3 ngày/lần),… Khi chỉ số ngoài ngưỡng cho phép cần xác định nguyên nhân và kịp thời xử lý hiệu quả.
Hàng ngày tiến hành xi phông loại bỏ chất thải lắng đọng dưới đáy ao. Chất thải cần được tập trung vào hố chứa, xử lý an toàn, không đưa trực tiếp ra môi trường xung quanh.
Định kỳ 3 – 5 ngày/lần bổ sung Dolomite, Bicarbonate và chất khoáng để duy trì độ kiềm tốt (80 – 120 mg/L), giúp tôm lột xác đồng đều và mau cứng vỏ.
Định kỳ 5 – 7 ngày sử dụng men vi sinh (các chủng Bacillus sp., Lactobacillus sp., Nitrosomonas sp., Nitrobacteria sp.,…) cùng với mật rỉ đường tạt vào thời điểm 8 – 10 giờ sáng để phân hủy chất hữu cơ lắng tụ đáy ao, giải phóng khí độc (NH3, H2S) và duy trì ổn định chất lượng nước trong ao ương.
Quá trình ương có thể cấp nước bổ sung hoặc thay nước (10 – 15% lượng nước trong ao) tùy theo diễn biến chất lượng nước trong ao. Lưu ý, nước thay phải được xử lý sát trùng, điều chỉnh pH, độ kiềm,… thích hợp tại ao sẵn sàng trước khi đưa vào ao ương.
Thời gian ương được khoảng 20 – 30 thì có thể sang tôm sang ao nuôi, tùy vào điều kiện ương và việc chuẩn bị ao nuôi thương phẩm bên ngoài. Chỉ sang tôm ra ngoài khi ao nuôi đã được chuẩn bị tốt, các yếu tố môi trường nước (nhiệt độ, pH, độ kiềm, màu nước,…) phải nằm trong khoảng thích hợp và có sự tương đồng với ao ương.
Sang tôm bằng cách rút bớt nước xong rồi kéo lưới hoặc đặt lú bắt dần; sau đó mới rút nước cạn bắt hết số tôm con còn lại. Việc san tôm nên tiến hành trong điều kiện trời mát (sáng sớm hoặc chiều tối) và phải đảm bảo thao tác nhanh, tránh ảnh hưởng sức khỏe tôm.
Nguyễn Hằng