Nuôi biển bền vững Hành trình giảm thiểu tác động môi trường từ chất thải thủy sản

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam đang đối diện với nhiều thách thức về môi trường, xu hướng nuôi biển bền vững trở thành mục tiêu cấp bách.

Thách thức từ chất thải trong nuôi thủy sản

Nuôi biển không chỉ là ngành kinh tế trọng yếu mà còn là chìa khóa quan trọng cho xuất khẩu và phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh ven biển. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tạo ra khối lượng chất thải không nhỏ, bao gồm thức ăn thừa, phân cá và hóa chất quản lý. Theo đánh giá của các chuyên gia, chất thải nếu không được xử lý phù hợp thì có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng, làm suy thoái môi trường sống và ảnh hưởng đến đối tượng nuôi. Hiện tượng tàn phá hệ sinh thái biển đang trở thành mối nguy lớn, đặt ra câu hỏi về tính bền vững của ngành.

Khu vực nuôi cá chẽm công nghệ cao của Công TNHH Thủy sản Australis Việt Nam tại Vân Phong (Khánh Hòa). Ảnh: Thiện Tâm

Ngoài ra, việc thiếu quy hoạch tổng thể trong vùng nuôi biển dẫn đến tình trạng quá tải môi trường. Tại một số khu vực, mật độ lồng bè quá cao làm cạn kiệt ôxy trong nước, gây thiệt hại cho người nuôi. Thực tế, tại Phú Yên, hàng loạt vụ cá chết bất thường trong những năm gần đây đều có liên quan đến ô nhiễm từ chất thải nuôi biển không được kiểm soát.

Công tác giám sát môi trường và quản lý chất thải cũng còn hạn chế. Nhiều địa phương thiếu nguồn lực để thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường một cách đồng bộ. Đồng thời, nhận thức của một số người nuôi còn chưa đầy đủ, khiến việc sử dụng thức ăn và hóa chất không kiểm soát càng làm tình trạng ô nhiễm trầm trọng hơn.

Một thách thức khác đó là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường biển, dẫn đến tăng nhiệt độ nước biển, axit hóa và mực nước biển dâng đều ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng nuôi trồng.

Điểm sáng cho tương lai

Trong bối cảnh đó, mô hình nuôi đa loài (Integrated Multi-Trophic Aquaculture – IMTA) được đánh giá như một giải pháp tích cực giúp cải thiện môi trường nuôi biển. Hệ sinh thái nhân tạo kết hợp nhiều loài khác nhau, trong đó loài đáp ứng chức năng định dưỡng và lọc chất thải như rong biển và động vật thân mềm sẽ hấp thu các chất dư thừa từ loài nuôi chính. Ví dụ, rong biển có khả năng hấp thụ nitơ và phốt pho từ chất thải, trong khi các loài thân mềm như hàu và vẹm ăn các hạt hữu cơ lơ lửng, giúp cải thiện chất lượng nước. Đây là cách tự nhiên để giảm thiểu ô nhiễm, tăng năng suất và thúc đẩy sự bền vững của hệ thống nuôi trồng.

Thực tế tại Quảng Ninh và Khánh Hòa cho thấy IMTA giúp giảm khí thải, bảo tồn sinh thái biển và cung cấp nguồn thu nhập ổn định. Mô hình còn góp phần tăng năng suất do tận dụng nguyên liệu, đặc biệt thu hút nhà đầu tư khi xu hướng sản xuất xanh đang trở thành xu thế.
Một trong những mô hình nổi bật là tại đảo Phất Cờ, huyện Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh) kết hợp nuôi cá, rong và hàu nhằm tận dụng triệt để điều kiện sinh thái và hỗ trợ lọc nước, cải thiện môi trường.

Ông Vũ Anh Tư, Viện phó Viện Nuôi trồng thủy sản STP cho biết: “Chúng tôi áp dụng mô hình nuôi đa canh tại Vân Đồn, kết hợp nuôi cá, rong và hàu. Nuôi rong thì hàu sẽ được tăng cường dinh dưỡng, tăng cường lọc nước, tăng cường lượng ôxy trong nước biển, giúp cho quá trình nuôi cá an toàn hơn, môi trường tốt hơn”.

Năm 2024, Khánh Hòa có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản khoảng 3.864 ha với tổng sản lượng đạt 22.570 tấn. Trong đó, tôm hùm là đối tượng nuôi biển trọng điểm với tổng số lồng thả nuôi là 99.790 ô lồng và sản lượng đạt 3.300,9 tấn. Tiếp đến là cá chẽm, cá mú, cá bớp, cá hồng, cá chim trắng, cá bè với sản lượng 9.258,7 tấn. Nhiều doanh nghiệp và hộ dân ứng dụng công nghệ nuôi lồng bằng vật liệu mới HDPE đạt hiệu quả cao về sản lượng nuôi biển. Ngoài ra còn có rong biển với diện tích thả khoảng 131,5 ha, sản lượng 1.018,5 tấn (rong sụn 302,5 tấn, rong nho 716 tấn). Một số đối tượng khác cũng mang lại hiệu quả kinh tế như tu hài, vẹm xanh, ngao hai cùi…

Theo ông Nguyễn Duy Quang – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa, công nghệ nuôi biển theo quy mô công nghiệp bằng lồng HDPE không chỉ giúp thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn phù hợp với cảnh quan, bảo vệ môi trường, giúp tăng sản lượng cá biển nuôi. Dựa trên số liệu về kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trưởng qua các năm, ông Quang nhận định, nếu khai thác tốt tiềm năng lợi thế biển của địa phương, đồng thời kết hợp các chính sách khuyến khích phát triển phù hợp, dự kiến năm 2025 xuất khẩu thủy sản của Khánh Hòa sẽ thu về gần 1 tỷ USD.

Vai trò của chính sách và đầu tư

Các chương trình đào tạo và hội thảo chuyên đề tại các tỉnh ven biển như Khánh Hòa, Phú Yên đã được triển khai nhằm nâng cao nhận thức và kỹ thuật cho người dân. Tại Phú Yên, tháng 8/2024, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã tổ chức hội thảo “Giải pháp nuôi trồng và phát triển thủy sản bền vững” tại Sông Cầu, hướng dẫn chuyển đổi sang lồng HDPE, gắn camera giám sát, chọn giống phù hợp – giải pháp thiết thực giúp giảm thiệt hại và nâng cao chất lượng sản phẩm biển. Song song đó, 50 lớp tập huấn và 19 lớp thực hành hiện trường đã trang bị kỹ thuật nuôi tiên tiến, tăng năng lực sản xuất cho người dân ven biển.

Qua thực tế triển khai tại địa phương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa nhận định, nghề nuôi trồng thủy sản đòi hỏi mức đầu tư lớn, mức độ rủi ro cao nên khó khăn trong việc tiếp cận các chính sách; chưa có chính sách cụ thể về hỗ trợ một lần sau đầu tư để khuyến khích chuyển đổi mô hình nuôi truyền thống sang mô hình nuôi biển công nghệ cao.

Một hành trình bền vững không thể thiếu vai trò hỗ trợ từ chính phủ. Do vậy, nhà nước cần đẩy mạnh các chính sách vốn vay, đầu tư hạ tầng và chuyển giao kỹ thuật. Những đề án thí điểm ở khu vực tiềm năng sẽ là cơ sở quan trọng góp phần nhân rộng các giải pháp xanh trong nuôi trồng thủy sản.

Nuôi biển bền vững không chỉ là chiến lược kinh tế quan trọng mà còn là giải pháp thiết yếu để bảo vệ môi trường và ứng phó với những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu. Sự kết hợp giữa các mô hình tiên tiến như IMTA, ứng dụng khoa học công nghệ và chính sách hỗ trợ đồng bộ đã và đang chứng minh hiệu quả, qua đó góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tăng năng suất, giá trị của sản phẩm.
*Từ ngày 1/7/2025, tỉnh Phú Yên chính thức sáp nhập với tỉnh Đắk Lắk.

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, tính đến hết năm 2024, tổng sản lượng thủy sản của cả nước đạt 9,609 triệu tấn, tăng 2,0% so với năm 2023 (9,379 triệu tấn). Riêng nuôi trồng có 1,3 triệu ha nuôi nội địa và 9,7 triệu m³ lồng nuôi biển (tương đương so với năm 2023), tổng sản lượng khoảng 5,753 triệu tấn, tăng 3,7% so với năm 2023.

Thùy Khánh

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!