Nuôi biển qua góc nhìn doanh nghiệp

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Khi nguồn lợi thủy sản khai thác từ tự nhiên đang ngày càng cạn kiệt, việc phát triển nuôi trồng thủy sản nội địa là có giới hạn (do vấn đề môi trường và diện tích), thì việc phát triển nghề nuôi biển được xem là giải pháp khả thi nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và đảm bảo phát triển thủy sản bền vững.

Tiềm năng và lợi thế lớn

Những năm qua, con cá chẽm được Công ty Australis Aquarium – một doanh nghiệp thủy sản tại Mỹ nuôi lồng bè trên vùng biển của tỉnh Khánh Hòa rất thành công cả về năng suất lẫn chất lượng. Điều này được minh chứng khi 80% sản phẩm được xuất khẩu sang thị trường Mỹ với giá bán rất tốt. Bên cạnh con cá chẽm, còn khá nhiều đối tượng nuôi biển khác rất tiềm năng đã và đang khẳng định tính hiệu quả khi được ngư dân, doanh nghiệp đưa vào nuôi. Nếu như các tỉnh miền Trung có thế mạnh về nuôi tôm hùm, cá bớp, cá mú, cá bè vẫu hay hải sâm, rong biển… thì khu vực ĐBSCL cũng biết tận dụng, phát huy thế mạnh nuôi biển với các đối tượng: Nghêu, sò huyết (ven bờ), cá chim vây vàng, cá hồng Mỹ, cá bóp, cá mú trân châu… Ngoài những đối tượng nuôi biển nhằm cung cấp thực phẩm, còn có những đối tượng nuôi biển cho mục đích dùng làm dược liệu, mỹ phẩm, trang sức, như: Cá ngựa, rong biển, ngọc trai… mang lại giá trị kinh tế rất lớn.

Chúng tôi đã từng có mặt tại vùng nuôi trai lấy ngọc của Công ty Ngọc trai Hoàng Gia tại khu Đầm Môn, Hòn Tằm của tỉnh Khánh Hòa. Theo Nghệ nhân Hồ Thanh Tuấn – Chủ tịch HĐQT Công ty Ngọc trai Hoàng Gia, vùng biển Khánh Hòa này là trai phát triển tốt nhất cho chất lượng ngọc cao cấp nhất. Anh Tuấn chia sẻ: “Trước đây, tôi chỉ chuyên nuôi trai lấy ngọc và chế tác thành các sản phẩm trang sức. Những năm gần đây, tôi bắt đầu nhận ra một nguồn lợi rất lớn từ việc phát triển trai giống để xuất bán cho các đối tác nước ngoài, nhất là đối tác ở thị trường Nhật. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng bột ngọc trai chế biến thành mặt nạ làm đẹp da mặt, giá trị rất cao và được tiêu thụ rất tốt cả trong và ngoài nước”.

Từ năm 2017 trở lại đây, hàng ngàn ngư dân ở xã Hòn Nghệ, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang (cũ) trước đây vốn chỉ đánh bắt ven bờ, thu nhập bấp bênh đã có được thu nhập ổn định hơn từ nghề nuôi cá mú, cá bớp, hay cá bè vẫu… Đối tượng nuôi lồng bè của ngư dân phổ biến là cá bóp, cá mú, cá chim, cá hồng mỹ, cá chim vây vàng. Trong đó đối tượng bớp, cá mú được xem là một trong những đối tượng được nuôi phố biến nhất. Tôm hùm cũng đang được thử nghiệm nuôi tại một số xã đảo của huyện, nhưng quy mô còn nhỏ lẻ.

Giới thiệu với chúng tôi về nghề nuôi cá bè vẫu, bà Lê Thị Ngọc Thảo – xã Hòn Nghệ, không giấu niềm vui: “Nuôi cá trong lồng bè tính ra cũng không quá khó, chỉ cần có con giống tốt, thức ăn đầy đủ và chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật được hướng dẫn thì hiệu quả và tỷ lệ thành công sẽ khá cao. Ở đợt nuôi thử nghiệm đầu tiên, dù chỉ thả nuôi khoảng 1.000 con giống, nhưng tôi cũng có lời khoảng 35 triệu đồng”. Cũng như bà Thảo, anh Lâm Việt Thuần cũng tập tành nghề nuôi biển đầu tiên bằng con cá mú trân châu và ngay trong lần đó, anh đã có mức lợi nhuận 50 triệu đồng chỉ với 36 m2 lồng nuôi. Bà Thảo, anh Thuần và những hộ nuôi cá lồng bè ở Hòn Nghệ đều cho rằng, mô hình nuôi biển đã đem đến hiệu quả kinh tế rất rõ rệt, giúp ngư dân mạnh dạn chuyển đổi từ nghề đánh bắt ven bờ sang nuôi lồng bè nhưng vẫn đảm bảo sinh kế ngày một nâng cao.

Còn thiếu một thương hiệu

Theo anh Võ Điền Trung Dũng – Giám đốc Công ty TNHH Đại Ngư Nghiệp, người được mệnh danh là “Vua cá chẽm miền Tây”, bên cạnh thị trường nội địa, con cá chẽm còn có thuận lợi là được thị trường nhiều nước châu Á, châu Âu, Mỹ, Canada, Australia, Trung Đông… ưa chuộng, nên dư địa phát triển còn rất lớn. Tuy nhiên, cái thiếu hiện nay của con cá chẽm cũng như một số loại cá biển có giá trị khác chính là thương hiệu. Lý giải điều này, anh Dũng cho biết: “Đó là do chúng ta chưa mở rộng được thị trường, chưa quảng bá mạnh, chưa xây dựng được thương hiệu cho các đối tượng nuôi này nên còn nhiều thị trường tiềm năng chưa biết đến sản phẩm của chúng ta”. Cùng trăn trở về câu chuyện thương hiệu, ông Võ Thành Hiệp – Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Hưng Trường Phát (Bến Tre), chia sẻ: “Tuy đã có chứng nhận MSC và thị trường tiêu thụ lớn, nhưng do chưa có thương hiệu nên hiệu quả nghề nghêu vẫn chưa tăng tương xứng. Nếu có thương hiệu nghêu Việt Nam trên kệ hàng bán lẻ nước ngoài, tôi tin chắc rằng, thành công của nghề nghêu sẽ còn lớn hơn nhiều so với hiện nay”.

Nhắc đến công tác quảng bá, xúc tiến thị trường, anh Dũng vẫn còn cảm thấy tiếc: “Tôi vẫn còn nhớ, tại Hội nghị Cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (gọi tắt là APEC) năm 2017 tổ chức tại Đà nẵng, trong số thực đơn đãi khách có con cá chẽm, nhưng chúng ta không tận dụng được cơ hội này để quảng bá hình ảnh con cá chẽm với bạn bè quốc tế”. Do đó, theo anh Dũng, để con cá chẽm phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế thì Chính phủ phải đi đầu, sau đó đến bộ, ngành, nhằm giới thiệu, tiếp thị mặt hàng cá chẽm của Việt Nam đến các quốc gia khác, để đối tác biết, tìm đến Việt Nam như một chỉ dẫn địa lý về nguồn cung có chất lượng và đảm bảo nhu cầu về số lượng. Còn theo ông Hiệp, dẫu biết việc xây dựng thương hiệu là công việc chính của mỗi doanh nghiệp, nhưng hiện phần lớn doanh nghiệp không đủ nguồn lực và kinh nghiệm để thực hiện công việc này. Vì vậy, rất cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan và địa phương để con nghêu nói riêng và thủy sản Việt Nam nói chung sớm có được thương hiệu trên thị trường thế giới.

Nâng tầm vị thế nuôi biển

Lâu nay, khi nói về điểm yếu trong cạnh tranh của các mặt hàng thủy sản thì yếu tố giá thành luôn được xếp hàng đầu. Điểm yếu này chủ yếu xuất phát từ quy mô nuôi nhỏ lẻ, manh mún, thiếu chuyên nghiệp nên năng suất, sản lượng không ổn định. Điều này không chỉ làm tăng giá thành mà còn gây khó cho doanh nghiệp trong việc chủ động xây dựng kế hoạch đơn hàng với đối tác. Một khó khăn nữa đối với nuôi biển đó là sự thiếu hụt nguồn giống chất lượng, tạo nên một nút thắt không đáng có kiềm hãm sự phát triển của nghề nuôi biển. Không những thế, nuôi biển đòi hỏi nguồn vốn khá lớn để đầu tư lồng bè, con giống, thức ăn… nhưng đa phần ngư dân đều thiếu vốn, còn ngân hàng thì rất ngại đầu tư vì rủi ro cao.

Liên quan đến câu chuyện giá thành và cạnh tranh của sản phẩm nuôi biển, hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng, nếu đầu tư đến nơi đến chốn và chọn đối tượng lợi thế thì chúng ta không ngại cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước. Anh Dũng khẳng định: “Tôi cũng có nghiên cứu con cá chim vây vàng, cá rô phi hay cá mú nhưng thấy không thể cạnh tranh với Trung Quốc về giá thành, mà chỉ có con cá chẽm, cá hồng Mỹ và cá bớp là có đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc và một số quốc gia khác. Riêng con cá chẽm, tôi có thể khẳng định, cho đến thời điểm này, giá thành nuôi của chúng ta hoàn toàn đủ sức cạnh tranh với một số nước, như: Malaysia, Thái Lan… đặc biệt là lợi thế hơn Trung Quốc nhờ nuôi được quanh năm”.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cho biết, Sở và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã xây dựng mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao tại vùng biển hở thuộc xã Cam Lập, thành phố Cam Ranh bằng lồng tròn HDPE đối với cá và lồng vuông đối với tôm hùm. Các lồng nuôi được lắp đặt thiết bị camera giám sát, hệ thống định vị trên biển, cho nên có thể giám sát từ xa 24/7 trên thiết bị điện tử, rất hữu ích cho nuôi trồng thủy sản ngoài khơi. Mô hình đã được tổng kết giai đoạn đầu, đem lại hiệu quả rất tốt.

Với nhiều lợi thế về nuôi biển, tỉnh Phú Yên cũng đã ban hành Kế hoạch về nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, đến năm 2030, Phú Yên sẽ mở rộng thêm vùng biển hở xa bờ hơn 6 hải lý với diện tích mặt nước nuôi biển 3.650 ha. Chuyển đổi ít nhất 50% số lồng, bè nuôi truyền thống theo quy hoạch sang lồng HDPE, phát triển ngành nuôi biển đạt trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại và trở thành ngành hàng chủ lực. Tương tự, tỉnh Quảng Ninh cũng đã hình thành nhiều vùng nuôi biển tập trung, áp dụng mô hình nuôi công nghiệp với lồng bè hiện đại bằng nhựa HDPE phù hợp quy chuẩn về vật liệu nổi. Để nâng tầm nghề nuôi biến, Quảng Ninh đã đề xuất Bộ báo cao Chính phủ đưa tỉnh vào danh sách được hỗ trợ cơ chế tín dụng đặc thù cho nuôi biển, chính sách bảo hiểm nuôi biến, nhất là đối với vùng nuôi xa bờ và nuôi biến ứng dụng công nghệ cao.

Xuân Trường

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!