Hội Thủy sản Việt Nam: Đề xuất thí điểm sử dụng thiết bị, công nghệ giám sát trong khai thác thủy sản

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Hội Thủy sản Việt Nam đề xuất việc thí điểm sử dụng thiết bị, công nghệ giám sát quá trình khai thác, đồng thời chịu trách nhiệm về số liệu khai thác của các tàu cá đăng ký tham gia chương trình này.

Ngày 17/9/2025, Hội Thủy sản Việt Nam đã có Công văn số 101/VF5-CV gửi Văn phòng Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Môi trường về việc đề xuất mô hình quản lý khai thác thủy sản vùng lộng và ven bờ.

Nội dung Công văn nêu rõ, hiện nay, một số hội viên (ngư dân) của Hội Thủy sản Việt Nam đang gặp khó khăn trong khai thác thủy sản ven bờ và vùng lộng.

Hội Thủy sản Việt Nam kiến nghị nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ vướng mắc cho bà con ngư dân trong quá trình khai thác. Ảnh: VTCNews

Cụ thể, theo Luật Thủy sản, Nghị định 26/2019/NĐ-CP (Điều 43) thì tàu có chiều dài lớn nhất từ 15m trở lên (bắt buộc phải gắn thiết bị giám sát hành trình) chỉ được khai thác vùng khơi, không được khai thác vùng lộng và ven bờ. Các loài cá cơm, cá trích, cá nục (cá nổi nhỏ) xuất hiện chủ yếu ở vùng lộng và ven bờ nên đây cũng là ngư trường khai thác chính của tàu cá khai thác các loài cá này. Như vậy, nếu tàu cá khai thác các đối tượng trên có chiều dài trên 15m khai thác vùng lộng và tàu 6 -15m khai thác vùng ven bờ đều bị vi phạm và bị xử phạt vi phạm hành chính.

Cùng đó, moi (tép biển, ruốc) là loài sống ven bờ, có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Ngư dân thường phơi khô xuất khẩu sang các nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, nhưng do gần đây, không thể chứng nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản do chưa có hướng dẫn cụ thể cho các nghề khai thác đối tượng trên (nghề te, xiệc, đăng, mành) nên hoạt động xuất khẩu mới bị hạn chế, ảnh hưởng đến đời sống bà con ngư dân.

Bên cạnh đó, cá trích và một số loài cá nổi là loài di cư, tuy nhiên nếu quy định tàu tỉnh nào chỉ được khai thác vùng ven bờ tỉnh đó sẽ hạn chế sự phát triển và bó hẹp ngư trường khai thác, giảm hiệu quả trong sản xuất trên biển của tàu cá.    

Trước những vướng mắc trên, Hội Thủy sản Việt Nam kiến nghị Chính phủ cùng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho phép Hội Thủy sản Việt Nam chủ trì, kết hợp Hội Thủy sản thành phố Hồ Chí Minh, Hội Thủy sản An Giang thí điểm sử dụng thiết bị, công nghệ giám sát quá trình khai thác của các tàu (không phụ thuộc kích thước) khai thác cá cơm, cá trích, cá nục, moi (tép biển, ruốc) trên cơ sở giấy phép khai thác theo nghề, loài, mùa, sản lượng và vùng biển phù hợp để làm cơ sở cấp phép vùng hoạt động phù hợp với đặc thù của nghề và cấp giấy chứng nhận nguồn gốc nguyên liệu thủy sản. Hội sẽ chịu trách nhiệm trước nhà nước và pháp luật về số liệu khai thác của các tàu cá đăng ký tham gia chương trình thí điểm này. Nguồn kinh phí do Hội và các Hội viên đóng góp thực hiện.

Cùng đó, hỗ trợ Hội thực hiện đề tài đánh giá tác động của IUU tới đời sống ngư dân Việt Nam và các biện pháp ngăn chặn IUU một cách hiệu quả và bền vững.

Hội Thủy sản Việt Nam cho biết, việc đề xuất những nội dung trên nhằm tháo gỡ khó khăn cho bà con ngư dân, tạo cơ hội để duy trì hoạt động đúng pháp luật. Tạo thu nhập ổn định và nâng cao đời sống bà con ngư dân theo định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước. 

Mặt khác, thí điểm quản lý nghề cá thông qua quản lý nghề, loài, mùa, sản lượng và vùng biển, đồng quản lý nghề cá làm cơ sở thực tiễn để Nhà nước sửa đổi Luật Thủy sản và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Đồng thời, làm rõ các tác động tích cực và chưa tích cực tới đời sống của bà con ngư dân khi chúng ta áp dụng IUU, từ đó đưa ra các biện pháp IUU phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta một cách hợp lý để xây dựng nghề cá Việt Nam phát triển bền vững.

Hồng Hà

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!