(TSVN) – Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, ngành thủy sản tại Đồng bằng sông Cửu Long cần xác định hướng đi đúng đắn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất thủy sản lớn nhất cả nước, đóng góp khoảng 65% sản lượng nuôi trồng và 60% kim ngạch xuất khẩu. Điều kiện tự nhiên thuận lợi với diện tích trên 1,2 triệu ha có khả năng nuôi trồng, trong đó 750 nghìn ha vùng triều, hệ thống sông ngòi dày đặc và khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong nhiều năm qua, các sản phẩm chủ lực như cá tra, tôm nước lợ đã giúp thủy sản Việt Nam khẳng định vị thế trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, sự phát triển này đối mặt nhiều thách thức. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn mặn và xâm nhập mặn ngày càng khốc liệt. Hai đợt hạn mặn nghiêm trọng 2015–2016 và 2019–2020 gây thiệt hại lớn cho thủy sản, cho thấy tính dễ tổn thương của hệ sinh thái. Cùng với đó, chất lượng giống chưa ổn định, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh diễn biến phức tạp, sản xuất manh mún và thị trường thiếu ổn định khiến hiệu quả kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng.

Để có cơ sở khoa học, Viện Kinh tế & Quy hoạch Thủy sản đã triển khai nghiên cứu điều tra thực trạng và xác định tiềm năng phát triển nuôi các đối tượng thủy sản tiềm năng ở ĐBSCL. Từ danh sách 39 loài được đề xuất, nhóm nghiên cứu lựa chọn 12 đối tượng ưu tiên, gồm 6 loài nước mặn/lợ (nghêu, cá bớp, cua biển, sò huyết, hàu, cá kèo) và 6 loài nước ngọt (lươn, cá lóc, cá rô phi, diêu hồng, cá lăng, ếch, chạch chấu). Đây là những loài có giá trị kinh tế, khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và tiềm năng phát triển hàng hóa.
Kết quả điều tra cho thấy, diện tích và sản lượng nuôi các đối tượng tiềm năng đang có xu hướng tăng. Nghêu/ngao tập trung ở Vĩnh Long, Cà Mau với sản lượng hàng trăm nghìn tấn/năm. Cua biển, sò huyết, hàu được nhiều tỉnh ven biển chọn làm sản phẩm chiến lược. Ở vùng nước ngọt, lươn và cá lóc được phát triển mạnh ở An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang; cá rô phi/diêu hồng trở thành sản phẩm xuất khẩu tiềm năng; trong khi ếch và cá chạch chấu phù hợp quy mô nhỏ lẻ nhưng cho lợi nhuận cao.
Nhiều mô hình nuôi mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, lợi nhuận bình quân/hộ đạt từ 200–300 triệu đồng/năm, cao hơn một số đối tượng nuôi truyền thống. Các loài như lươn, cá rô phi, nghêu, cua biển có khả năng thích ứng tốt, chịu được biên độ mặn – ngọt rộng. Tuy nhiên, hạn chế lớn là giống chưa chủ động, nhiều loài vẫn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên; dịch bệnh như đốm trắng, EMS, EHP còn phổ biến; quy mô sản xuất nhỏ lẻ khiến khó tiếp cận thị trường xuất khẩu; và giá bán thiếu ổn định.
Qua phân tích điểm mạnh là lợi thế tự nhiên, đa dạng sinh thái, nhu cầu thị trường. Điểm yếu là chất lượng giống, công nghệ nuôi và quy mô nhỏ; cơ hội là nhu cầu thủy sản toàn cầu gia tăng, các hiệp định thương mại tự do; thách thức là biến đổi khí hậu, yêu cầu khắt khe về chất lượng và cạnh tranh quốc tế.
Từ các kết quả trên, có thể khẳng định tiềm năng phát triển các đối tượng nuôi tiềm năng ở ĐBSCL là rất lớn. Nhiều diện tích đất nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi hạn mặn có thể chuyển đổi sang nuôi thủy sản kết hợp, vừa thích ứng vừa nâng cao giá trị. Thị trường tiêu thụ trong nước tăng nhanh, thị trường quốc tế rộng mở nếu đáp ứng yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, mở ra khả năng ứng dụng nuôi tuần hoàn, biofloc, quản lý môi trường bằng trí tuệ nhân tạo.
Định hướng đến năm 2030, cần tập trung phát triển nhóm mặn – lợ (cá bớp, cua biển, nghêu, sò huyết, hàu, cá kèo) và nhóm nước ngọt (lươn, cá lóc, rô phi, lăng, chạch chấu, ếch), hình thành các vùng nuôi tập trung, gắn sản xuất với chế biến và thị trường.
03 nhóm giải pháp ưu tiên gồm: (i) chọn giống, nhân giống nhân tạo, kiểm soát chất lượng; (ii) ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến, tăng cường liên kết sản xuất; (iii) phát triển chế biến, thương hiệu và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
Kết quả nghiên cứu cũng đề xuất 03 dự án trọng điểm: Phát triển giống chất lượng cao, phát triển công nghệ nuôi công nghệ cao, và phát triển chế biến – thị trường theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Đây là những dự án mang tính nền tảng, nếu triển khai thành công sẽ tạo động lực lớn cho ngành thủy sản vùng ĐBSCL.
Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là “thủ phủ” của tôm và cá tra, mà còn là nơi hội tụ nhiều đối tượng thủy sản tiềm năng khác có thể trở thành mũi nhọn kinh tế trong tương lai. Để khai thác hiệu quả, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nông dân và các viện trường. Phát triển thủy sản theo hướng bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, gắn với chuỗi giá trị và thị trường quốc tế sẽ là con đường để ĐBSCL khẳng định vai trò trung tâm thủy sản của cả nước và vươn ra thế giới.
Nguyễn Thanh Tùng
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 về Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 Về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
3. Quyết định 3550/QĐ- BNN- TCTS, ngày 12/8/2021 phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
4. Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản (2022). Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ: Điều tra thực trạng và xác định tiềm năng phát triển nuôi trồng các đối tượng thủy sản tiềm năng vùng Đồng bằng sông Cửu Long.