(TSVN) – Sau 3 năm thực hiện Đề án 911, ngành thủy sản đã đạt nhiều kết quả về quản lý môi trường, kiểm soát rác thải nhựa và ứng dụng công nghệ. Tuy nhiên, nguồn lực hạn chế, nhân lực mỏng và rác thải nhựa đại dương gia tăng vẫn là những thách thức lớn, đòi hỏi giải pháp mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới.
Phát biểu tại Hội nghị bảo vệ môi trường trong hoạt động thủy sản năm 2025 tổ chức ngày 26/11, bà Nguyễn Thị Phương Dung, Trưởng phòng Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế (Cục Thủy sản và Kiểm ngư), cho biết sau ba năm triển khai Đề án (2022–2025), công tác bảo vệ môi trường trong thủy sản đã có nhiều chuyển biến tích cực, tạo nền tảng quan trọng cho giai đoạn tiếp theo.
Theo báo cáo, Đề án 911 đã giúp tăng cường lồng ghép nội dung môi trường vào hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản – lĩnh vực chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu và ô nhiễm biển. Ở tầm quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành kế hoạch triển khai, tổ chức nhiều hội thảo phổ biến chính sách, thúc đẩy hợp tác quốc tế với UNDP, GIZ, IUCN, WWF, FAO…
Về công nghệ, nhiều nhiệm vụ nghiên cứu hình thành chế phẩm sinh học, vaccine phòng bệnh; mô hình nuôi tuần hoàn RAS ứng dụng cảm biến tự động; cơ sở dữ liệu môi trường phục vụ giám sát vùng nuôi. Các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật mới giúp hệ thống quản lý môi trường có cơ sở đồng bộ hơn.
Ở địa phương, nhiều tỉnh ven biển triển khai thu gom rác thải nhựa tại cảng cá, thu hồi ngư cụ hỏng, truyền thông cho ngư dân và áp dụng mô hình nuôi trồng thân thiện môi trường. Các chương trình ODA như VN-CSCC, GEF, i4Ag… góp phần hỗ trợ phục hồi rừng ngập mặn, cải tạo hạ tầng xử lý nước thải và triển khai mô hình thích ứng dựa vào thiên nhiên.
Đưa rác về bờ – mô hình thiết thực bảo vệ môi trường biển ở Phú Yên (nay là Đắk Lắk). Ảnh: PV
Báo cáo nêu rõ ba nguyên nhân giúp Đề án đạt hiệu quả bước đầu gồm: sự chỉ đạo từ trung ương đến địa phương; nguồn lực hỗ trợ từ các dự án quốc tế; và sự tham gia tích cực của doanh nghiệp, viện trường, tổ chức phi chính phủ, tạo mạng lưới chuyên môn rộng và năng động, giúp nhiều mô hình thí điểm nhanh chóng được nhân rộng.
Tuy nhiên, nhiều khó khăn lớn vẫn kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện Đề án. Nguồn ngân sách hạn chế khiến nhiều địa phương thiếu kinh phí đầu tư hạ tầng xử lý nước thải, thu gom tại cảng cá, hay vận hành hệ thống quan trắc. Nhân lực thực hiện mỏng, đa phần kiêm nhiệm, dẫn đến công tác giám sát và thanh tra chưa hiệu quả. Việc phối hợp chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị còn rời rạc.
Đặc biệt, rác thải nhựa đại dương nhất là ngư cụ thất lạc – vẫn là “điểm nóng” chưa được kiểm soát hiệu quả. “Đây là vấn đề cấp bách, nhất là tại các khu bảo tồn biển và vùng khai thác ven bờ,” bà Dung nhấn mạnh.
Hướng tới giai đoạn 2026–2030, theo bà Dung, Đề án cần tập trung vào ba trụ cột chiến lược. Trước hết là hoàn thiện thể chế và tăng nguồn lực tài chính: rà soát mục tiêu phù hợp bối cảnh biến đổi khí hậu, bố trí kinh phí xử lý chất thải, xây dựng mạng lưới thu gom rác nhựa và mở rộng mô hình PPP trong xử lý môi trường. Đồng thời ban hành cơ chế khuyến khích thu hồi ngư cụ hỏng, sử dụng vật liệu phân hủy sinh học.
Thứ hai là nâng cao năng lực giám sát và thực thi thông qua việc xây dựng hệ thống quan trắc môi trường vùng nuôi gắn với cơ sở dữ liệu quốc gia; đào tạo cán bộ, tập huấn ngư dân và doanh nghiệp; tăng cường thanh tra, xử lý vi phạm; hoàn thiện cơ chế chia sẻ dữ liệu liên ngành.
Thứ ba là đổi mới mô hình sản xuất bằng cách nhân rộng công nghệ RAS, ứng dụng IoT – cảm biến, phát triển kinh tế tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm và đẩy nhanh xây dựng tiêu chuẩn, truy xuất nguồn gốc phục vụ xuất khẩu, hướng tới phát triển sản phẩm thủy sản xanh.
“Bảo vệ môi trường không chỉ là yêu cầu quản lý mà còn là điều kiện sống còn để ngành thủy sản phát triển bền vững và nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế”, bà Dung nhấn mạnh.
Thùy Khánh