Đồng bằng sông Cửu Long ngày nay “trắng nhiều hơn xanh”, những cánh đồng tôm cá ngày càng mở rộng đang đẩy lùi màu xanh của cây cối, rừng tự nhiên và đầm lầy hoang và làm tăng mối đe dọa đối với đời sống con người.
Báo động “trắng” át “xanh”
Đến ĐBSCLcách đây vài chục năm, vẫn thấy nhiều người nông dân sinh sống bằng việc đánh bắt tôm cá tự nhiên. Khi thủy triều lên, tôm cá từ biển tràn vào đồng bằng, người ta giăng lưới bắt. Nhưng giờ đây, đồng bằng đã thay đổi.
Đồng bằng đã trở thành một công trường nông nghiệp khổng lồ mà mỗi khi nước ngập thì trở thành tai họa, những gì gần gũi với thiên nhiên, như nuôi tôm quảng canh chẳng hạn, lại bị nghi ngờ và chỉ trích. Một nghiên cứu của Đại học Cần Thơ cho thấy 45,1% người nuôi tôm thâm canh cho rằng nuôi tôm sú gây ô nhiễm nặng nguồn nước xung quanh do nước thải không xử lý, nhiều hóa chất và bơm bùn ra sông. 66% người nuôi bán thâm canh cũng có quan điểm tương tự. Chính người dân đã tự chua chát thấy mình đang làm hỏng môi trường sống quanh mình.

Ô nhiễm môi trường làm tăng nguy cơ dịch bệnh trên tôm – Ảnh: PTC
Ở chiều ngược lại, có 70% ý kiến của người nuôi tôm cho rằng họ đang chịu sự ô nhiễm từ nguồn nước bên ngoài vào, trong đó có ô nhiễm chất thải công nghiệp, nông nghiệp, chất thải sinh hoạt và cả chất thải từ ngành tôm. Họ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân nên hậu quả phải gánh tăng gấp đôi.
Một người gắn bó và hiểu đồng bằng là GS Võ Tòng Xuân đã cảnh báo: “Đất nuôi tôm, nước mặn đã phá cấu trúc đất. Muốn chuyển trở lại trồng lúa, phải mất 5 – 6 năm, thậm chí 10 năm mới thực sự ngọt hóa trở lại để lúa phát triển tốt. Đài Loan, Thái Lan, Philippinnes… đều từng chung số phận. Nhiều vùng ven biển, trở thành vùng trắng”.
Trong khi đó, “chủ nhân” của đồng bằng – đó là những khu rừng ngập mặn vốn tràn ngập tôm cá tự nhiên, là nơi sinh trưởng và nuôi dưỡng tôm cá thiên nhiên (từ biển vào và cả trong đất liền), đã và đang bị hủy diệt hầu hết. Ngành môi trường cho biết trong những năm vừa qua diện tích rừng ngập mặn đã giảm 80%.
Theo Tổng cục Biển và Hải đảo, rừng ngập mặn Việt Nam đang bị phá hủy với tốc độ 3%/năm. PGS-TS Nguyễn Chu Hồi cho rằng đó là do sự phát triển ồ ạt các khu công nghiệp, khu dân cư và vùng nuôi trồng hải sản.
Mất rừng ngập mặn khiến quá trình bồi lắng phù sa bị ảnh hưởng nghiêm trọng, diện tích đồng bằng không được mở rộng như truyền thống lịch sử của nó, mà đang bị bào mòn do thủy triều và nước mặn thâm nhập đất liền. Quá trình chống biển đổi khí hậu tại vùng này vô tình cũng bị cản trở.
Chú trọng bảo vệ thiên nhiên
Các chuyên gia ngành tôm cho rằng năng suất tôm ở Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực; chất lượng con giống, thức ăn cũng như quy trình công nghệ còn nhiều vấn đề. Bài toán hiện đại là giảm diện tích nhưng tăng sản lượng. Năng suất nuôi trồng tăng gấp đôi đồng nghĩa diện tích giảm được 50%. Chỉ khi đó mới có quỹ đất để luân canh, phát triển rừng ngập mặn mà cuộc sống người dân và nguồn cung cho thị trường vẫn giữ vững.
Người dân ĐBSCL thích nuôi tôm quảng canh, nuôi tôm – lúa. Đây là thuận lợi lớn cho việc bảo vệ môi trường. GS Võ Tòng Xuân cũng cho rằng phát triển tôm- lúa là hướng đi bền vững.
ĐBSCL có bình độ thấp nên độ lắng đọng cao và lưu vực rộng lớn bao phủ nhiều tỉnh, thành phố; do đó việc xả thải từ các nhà máy, khu công nghiệp, khu nuôi tôm công nghiệp cần được giám sát chặt chẽ. Những nhà máy, những vùng nuôi không đảm bảo tiêu chuẩn môi trường cần bị đình chỉ và xử lý nghiêm.
Nhiều nơi đã gióng lên hồi chuông về môi trường. Bảo vệ môi trường nuôi tôm trước hết là trách nhiệm của các doanh nghiệp, cơ sở, đại lý, các hộ trong ngành. Các doanh nghiệp hãy đầu tư vào việc bảo vệ môi trường, nghiên cứu tăng năng suất nuôi trồng và tích cực trồng rừng ngập mặn, bảo vệ thiên nhiên; đó chính là đầu tư cho tương lai.
|
>> Các nhà nghiên cứu cho rằng cần học tập một số mô hình nuôi công nghiệp ở Indonesia, Thái Lan…Các khu công nghiệp này cần hoạt động có điều kiện. Trong đó vấn đề bảo vệ môi trường phải đặt ra nghiêm ngặt, những nghiên cứu thúc đẩy năng suất và sản lượng. |