Thức ăn chất lượng sẽ cho những con cá nuôi tốt hơn. Và với mục tiêu này, gần đây một khoản tài trợ trị giá gần 276.000 USD từ Quỹ Nghiên cứu Nông nghiệp và Thực phẩm đã được trao cho các nhà khoa học thuộc Sở Thủy sản và Động vật hoang dã của Đại học bang Oregon, Mỹ (gồm Viện Nghiên cứu Hubbs-SeaWorld, Đại học bang Oregon và Reed Mariculture).
Cải thiện nguồn dinh dưỡng
Mục tiêu ban đầu của khoản tài trợ là cải thiện nguồn dinh dưỡng ban đầu cho cá bơn và cá đuôi vàng California. Với kỳ vọng công nghệ mới sẽ được áp dụng cho các loài khác và có thể được áp dụng cho ngành công nghiệp nuôi trồng thủy sản trong vòng ba năm sau khi hoàn thành dự án.
Matt Hawkyard, một nhà nghiên cứu thuộc bang Oregon và là thành viên của nhóm nghiên cứu cho rằng: “Cá sống trong nước do đó những gì chúng ăn đều được tìm thấy ở đó và cần giải quyết được vấn đề này. Khi bạn lấy các hạt thức ăn giả và đặt chúng vào trong nước, bất cứ thứ gì có áp lực cao với nước có thể bị mất đi nhanh chóng”.
Những thức ăn tươi sống này đặc biệt là các Artemia và luân trùng (rotifer) thường được sử dụng làm thức ăn cho cá giống tại các trang trại giống hoặc ao ươm. Chúng có kích thước rất nhỏ, nhỏ hơn đường kính của một sợi tóc người, những hạt này có rất nhiều diện tích bề mặt và nhanh chóng bị mất chất dinh dưỡng.
Vì vậy, việc làm giàu giá trị dinh dưỡng cho cá con từ Artemia và luân trùng là rất khó khăn. Do đó, những thức ăn tươi sống này thường thiếu các hợp chất quan trọng cho cá con. Làm cho cá có chế độ dinh dưỡng kém dẫn đến tỷ lệ tử vong cao hơn và thậm chí dị tật trong quá trình nuôi. Cá và động vật có vỏ (nhuyễn thể, giáp xác…) không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh trong nước. Bởi, chúng có lớp màng mỏng màng chứa các tế bào giúp chúng tránh khỏi các phân tử hòa tan trong nước.
Từ vấn đề nêu trên, các nhà nghiên cứu đã quyết định thử nghiệm tại một trang trại có tên là Mother Nature. Họ đã tiến hành thử nghiệm với các liposome, các quả cầu rỗng nhỏ xíu với lớp ngoài được bao bọc bởi lipid hoặc chất béo, là những chất có lớp ngoài không hòa tan trong nước. Nhờ đó, những gì trong liposome được bảo vệ khỏi tác dụng hòa tan của nước. Khi cá ăn, men tiêu hóa sẽ phá vỡ các liposomes và giải phóng các chất bên trong. Điều này giúp cung cấp một phương tiện để cá có thể hấp thụ trực tiếp được các chất dinh dưỡng cần thiết.
Hawkyard nói: “Những gì đi vào bên trong các liposome là chất dinh dưỡng, chẳng hạn như taurine acid amin hòa tan trong nước, rất cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của cá”. Ông nói thêm rằng, việc sản xuất liposome đã được sử dụng bởi ngành công nghiệp dược phẩm để cung cấp các loại thuốc có giá trị cao. Các nhà nghiên cứu OSU đã phát triển các phương pháp sản xuất liposome có chứa chất dinh dưỡng có hiệu suất cao và chi phí cao. “Hiện tại, chúng tôi có thể tạo ra một lượng lớn các liposome này và sử dụng chúng để làm phong phú thêm nguồn cấp dinh dưỡng trực tiếp”, Hawkyard nói.
Kết quả là cải thiện gấp 100 lần hiệu quả làm giàu rotifers với taurine, so với những gì xảy ra khi axid amin được thêm vào nước. Sử dụng công nghệ này để làm phong phú thêm nguồn cấp dữ liệu trực tiếp có thể cung cấp dinh dưỡng đầy đủ hơn cho cá.
Hướng đến sản phẩm tối ưu
Mark Drawbridge, nhà khoa học nghiên cứu cao cấp tại Viện Nghiên cứu Hubbs-SeaWorld (HSWRI) cho biết, việc đưa thức ăn cải tiến này càng sớm càng tốt cho sự phát triển của cá và rất quan trọng. “Hầu hết các loài này đều mới và chưa được nuôi cấy. Vì vậy, bạn đang ở trong một tình huống mà giai đoạn ấu trùng thường trở thành nút thắt trong toàn bộ quá trình trong việc sản xuất đủ cá để có khả năng thương mại”, ông nói.
Drawbridge cũng cho biết, HSWRI đã cộng tác với Oregon State về các dự án trong nhiều năm, vì vậy, đóng góp cho khoản tài trợ này là một bước tiếp theo hợp lý, cũng như sự tham gia của viện nghiên cứu về chất dinh dưỡng liposome tại California.
Trong khi nhóm nghiên cứu của Tiểu bang Oregon đang nghiên cứu về việc thiết kế thức ăn, HSWRI sẽ tập hợp các thử nghiệm cho ăn ấu trùng, với mục tiêu là tinh chỉnh thêm thức ăn dựa trên kết quả. Trong giai đoạn đầu tiên, sự tăng trưởng của ấu trùng sẽ được đánh giá. Khi dự án tiến triển, các tác động lâu dài sẽ được đánh giá, chẳng hạn như dị tật không thể phát hiện được cho đến giai đoạn cá trưởng thành. Trong thời gian, việc áp dụng thương mại công nghệ sẽ là thước đo thành công cuối cùng.
Cuối cùng, có thể tạo ra một thức ăn công thức cho ấu trùng cá, loại bỏ sự cần thiết phải tăng nguồn thức ăn sống. Điều này có thể cho phép điều chỉnh chính xác hơn và tối ưu hóa thức ăn cho ấu trùng cá cũng như làm giảm đáng kể độ phức tạp và chi phí, theo Drawbridge.
Trong khi phương pháp này thành công với một số loài thủy sinh, lại gặp trở ngại khi nói tiến hành cho cá ăn, bởi cá khó có thể ăn các hạt thức ăn đang trôi chậm hoặc thậm chí gần như cố định. “Các ấu trùng, đặc biệt là khi chúng còn rất non, được lập trình sẵn để ăn một vật thể di chuyển khác và vì vậy đó là một phần của thử thách”, Drawbridge nói.
>> Mục tiêu cần làm là làm sao để có được một rotifer hoặc artemia tương đượng với những gì thường được ăn bởi giai đoạn ấu trùng của cá vây trong tự nhiên. Để đạt được điều đó đòi hỏi phải có công thức phù hợp để cân bằng nhiều chất dinh dưỡng và chất bổ sung có thể có. |