Một khái niệm nuôi dưỡng thủy sản mới đang khai thác hệ sinh thái ao để khuyến khích cá và tôm nuôi ăn thức ăn tự nhiên bên cạnh thức ăn nuôi trồng thủy sản- một hệ thống có khả năng giảm cả chi phí sản xuất và tác động môi trường.
Khi dân số toàn cầu tăng lên, nhu cầu về cá và áp lực tăng năng suất nuôi trồng thủy sản cũng tăng theo. Kích hoạt sự gia tăng này là sự mở rộng các khu vực nuôi cá và động vật có vỏ và tăng cường các hệ thống sản xuất cung cấp khoảng một nửa số cá và động vật có vỏ được tiêu thụ trên toàn thế giới.
Nuôi trồng thủy sản thâm canh phụ thuộc nhiều vào thức ăn được sản xuất thương mại, sử dụng một lượng lớn nguồn thủy sản, như bột cá và dầu cá, cũng như các nguồn cung cấp trên mặt đất như ngũ cốc và đậu.
Hiện tại, các hệ thống cho ăn thủy sản nói chung nhằm vào các loài nuôi mà không xem xét sự đóng góp có thể có của hệ sinh thái ao và lưới thức ăn của nó vào chế độ ăn của loài nuôi.
Trong các hệ thống này, lưới thức ăn – chuỗi thức ăn trong ao từ thực vật phù du, vi khuẩn và các sinh vật khác đến cá hoặc tôm được nuôi – được kích thích bởi thức ăn thừa và chất thải. Những sinh vật này lần lượt sản xuất thức ăn cho cá hoặc động vật giáp xác.
Tuy nhiên, chất thải thức ăn nuôi trồng thủy sản không xem xét các yêu cầu dinh dưỡng của lưới thức ăn và điều này tạo ra sự mất cân bằng trong hệ thống ao. Hậu quả là chất thải chỉ bị phân hủy một phần. Phần còn lại tích lũy, làm suy yếu môi trường ao và làm cho các loài nuôi dễ bị bệnh.
Nhiều người nuôi cá giải quyết các vấn đề do mất cân bằng dinh dưỡng trong chất thải thức ăn nuôi trồng thủy sản bằng cách sử dụng chất khử trùng, hỗn hợp khoáng chất, prebiotic và men vi sinh. Ngược lại, khái niệm “ao dinh dưỡng” nhằm mục đích nuôi cá hoặc tôm đồng thời tạo ra chất thải cân bằng dễ bị phân hủy. Do đó, việc tích lũy chất thải được giảm thiểu, quá trình khoáng hóa diễn ra nhanh chóng, việc sản xuất thức ăn tự nhiên cho cá và tôm là tối ưu và môi trường ao luôn sạch sẽ.
Hiện nay, thức ăn dinh dưỡng ở ao tập trung vào việc tối ưu hóa tỷ lệ carbon-nitơ để tăng tốc độ khoáng hóa chất thải. Một lợi thế khác của việc sử dụng chúng là các thành phần giàu carbon rẻ hơn so với các thành phần giàu nitơ, giúp giảm chi phí cho ăn.
Các thử nghiệm thành công
Khái niệm ao dinh dưỡng được thử nghiệm với tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở Việt Nam và cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) ở Bangladesh. Công trình này là một phần của dự án nghiên cứu kéo dài 5 năm do Đại học Wageningen ở Hà Lan dẫn đầu với sự hợp tác của WorldFish, một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận quốc tế có trụ sở tại Malaysia.
Tại đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, các thí nghiệm lặp đi lặp lại trong ba năm cho thấy giảm 20% lượng thức ăn, kết hợp với carbohydrate bổ sung giá rẻ, đạt được năng suất tương tự như các hoạt động nuôi tôm thông thường, trong khi giảm chi phí vận hành khoảng 10%. Các thử nghiệm tại trang trại cho thấy sự tăng trưởng của từng con tôm mỗi ngày trong các ao thử nghiệm cao hơn so với các ao đối chứng.
Olivier Joffre, nhà khoa học tại WorldFish cho biết, trong tất cả các thử nghiệm tại trang trại sử dụng phương pháp này, ao cho thấy chất lượng nước ổn định hơn và ít bị ảnh hưởng hơn khi bùng phát dịch bệnh so với phương pháp cho ăn thông thường.
Các thí nghiệm trong các bể sử dụng tinh bột ngô làm nguồn carbohydrate cũng cho thấy kết quả đầy hứa hẹn, so với mật mía thường được sử dụng. Nghiên cứu đang thực hiện là điều chỉnh công nghệ bằng cách xem xét carbohydrate thích hợp nhất – tinh bột ngô, sắn hoặc mật rỉ – và loại và tần suất áp dụng.
Sản lượng cao hơn
Ở Bangladesh, một nghiên cứu gần đây đã đánh giá xem việc liệu hạ thấp tỷ lệ protein-năng lượng (P: E) trong chế độ ăn xuống dưới tỷ lệ tối ưu đã biết có ảnh hưởng đến năng suất cá, chức năng của chuỗi thức ăn và cân bằng nitơ trong ao nuôi cá rô phi bán thâm canh hay không.
Ông Kazi Ahmed Kabir cho biết: Kết quả cho thấy năng suất cao hơn 21% khi cá được cho ăn chế độ ăn P: E thấp.
Hiệu suất tốt hơn của cá là nhờ hiệu quả tăng cường của chế độ ăn có thức ăn tự nhiên trong ao – 64% tăng trưởng được ghi nhận từ thực phẩm tự nhiên này. Ngoài việc tăng năng suất, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn cũng dưới 1. Chế độ ăn theo khái niệm chỉ chứa 24% protein và 3% bột cá. Các loại thức ăn thông thường thường có từ 30 – 35% protein và 10-15% bột cá.
Do đó, theo Kabir, việc sử dụng chế độ ăn theo khái niệm này có khả năng giảm chi phí thức ăn và tăng lợi nhuận của nuôi cá rô phi trong ao cho cả nông dân quy mô nhỏ và thương mại.
Đồng thời, nó làm tăng tính bền vững của ngành công nghiệp thức ăn cho cá bằng cách giảm thiểu việc sử dụng bột cá và giảm protein trong chế độ ăn.
Khái niệm ao dinh dưỡng đang được phát triển với sự hợp tác của các đối tác trong ngành (Nutreco, Skretting Vietnam và công ty nuôi tôm Việt-Uc), các trường đại học và tổ chức nghiên cứu (Đại học Wageningen, Đại học Cần Thơ ở Việt Nam và WorldFish), cán bộ khuyến nông và nhỏ quy mô nông dân. Cách tiếp cận đa bên này đã giúp hệ thống thức ăn phù hợp hơn với bối cảnh địa phương và, khi dự án hoàn thành, có thể tạo điều kiện cho việc áp dụng công nghệ.
Bây giờ bước vào giai đoạn cuối cùng, dự án dự kiến sẽ chuyển những phát hiện của mình sang các sản phẩm thương mại mới như thức ăn nuôi trồng thủy sản có hàm lượng protein thấp, làm cho nuôi trồng thủy sản trong ao có lợi hơn, bền vững hơn và dễ dự báo hơn.
HNN (Theo thefishsite)
Theo TCTS