Nhiều bài báo Ấn Độ đã ca tụng cá tra, basa là tâm điểm trong những bữa tối ngoài trời tại các nhà hàng sang trọng. Rượu cognac, các món ăn hảo hạng và cuộc tán gẫu trong bữa ăn đều phải tạm ngừng khi món cá tra, basa nướng chanh tỏi, cùng mù tạt, cà chua bi được dọn ra. Món cá này có hương vị ngon tuyệt, như hội tụ những gì tinh túy nhất của dòng Mekong huyền thoại.
Cá tra, basa xuất xứ Việt Nam dễ nuôi, năng suất cao, giá cạnh tranh, đồng thời là nguồn cảm hứng vô tận đối với các bà nội trợ cho đến những đầu bếp tại các nhà hàng nổi tiếng tại Ấn Độ. Loài cá này được nuôi ở vùng đồng bằng châu thổ sông Mekong ở Đông Nam Á. Tại Anh, cá tra, basa được gọi là “cobble”. Theo Thời báo Chủ nhật của Anh, hàng chục vạn cửa hàng bán thủy sản và khoai tây chiên tại Anh đã kịch liệt phản đối cá tra, basa Việt Nam khi nhiều nhà cung cấp đã cố tình biến cá tra, basa thành “kẻ mạo danh” cá tuyết truyền thống của nước này. Cá tra, basa tiếp tục gây ồn ào và trở thành vật chướng tai gai mắt tại thị trường Mỹ khi giá rẻ hơn cá da trơn Mỹ. Cuộc chiến “cá da trơn” bùng nổ, đẩy cá tra, basa của Việt Nam vào cảnh khốn khó, từ việc phải “thay tên đổi họ” cho tới những áp lực từ thuế chống bán phá giá. Cuộc chiến gay gắt, không đơn thuần trên khía cạnh khoa học hay xuất xứ nguồn thực phẩm nữa, mà đó là cuộc chiến về chính trị và thương mại.
Cá tra, basa tiếp tục rơi vào danh sách đỏ của WWF – như đeo bản án tử tại thị trường EU. Tuy nhiên sau đó, cá tra, basa đã được minh oan. WWF cũng đưa ra lý lẽ thuyết phục về việc sản xuất và nuôi cá tra, basa tại Việt Nam đáp ứng những yêu cầu nghiêm ngặt nhất theo chuẩn EU, Australia, Mỹ, Nhật Bản.
Tuy nhiên, dường như những tai ương khó tránh ở trên lại đưa đẩy cá tra, basa tới thị trường Ấn Độ. Thực ra, cá tra, basa đã được đưa vào thị trường Ấn Độ cách đây 2 năm, bởi hãng thực phẩm Empire Foods. Sau một năm tìm chỗ đứng, cá tra, basa Việt Nam mới được thị trường Ấn Độ chấp nhận, và giờ đây, Empire Food đang là đầu mối cung cấp fillet cá tra, basa cho các chuỗi nhà hàng, khách sạn lớn nhất tại Ấn Độ. Yogesh Grover, Giám đốc Empire Foods cho biết phân khúc nhà hàng, khách sạn Ấn Độ tiêu thụ khoảng 100 tấn cá tra, basa mỗi tháng.
Ngư dân Ấn Độ cũng tìm mọi cách kiếm lời từ tiếng thơm của cá tra, basa bằng cách thay tên cho loài cá địa phương là pungus thành cá basa Ấn Độ. Tuy nhiên, pungus không sánh được với cá tra, basa Việt Nam về chất lượng. Người Ấn Độ luôn cho rằng cá tra, basa Việt Nam tươi sống, được đưa vào nhà máy chế biến và kho lạnh bảo quản hợp lý. Sau khi lọc fillet, cá được xếp vào container lạnh và thực hiện cuộc hành trình 1 tháng sang Ấn Độ. Hệ thống làm lạnh được duy trì liên tục. Khi cập cảng, chỉ những khách sạn lớn mới có hàng.
Nhiều món ngon từ cá tra, basa Việt Nam đã làm nao lòng thực khách tại Ấn Độ, như basa sốt Szechuan, basa nướng dừa và ớt, cà ri tra, basa theo hương vị truyền thống của vùng Andhra. Trữ lượng cá biển Ấn Độ cũng giảm mạnh mấy năm gần đây, ngư dân chỉ đánh bắt được cá nhỏ. Do đó, fillet cá tra, basa trở thành sự lựa chọn thay thay thế hoàn hảo nhất. Món cá này hợp khẩu vị người Ấn Độ nhờ vị ngon, tinh khiết và giá hợp lý. Cá basa Việt Nam rất “có duyên” với Ấn Độ; các nhà xuất khẩu không nên bỏ lỡ thị trường tiềm năng này.
Biên tập viên của Seafood Source