(TSVN) – Một trong những vấn đề cố hữu của ngành thủy sản là phải đưa được sản phẩm đến gần thế hệ người tiêu dùng trẻ tuổi hơn. Như rau xanh và salad, thủy sản và mùi vị đặc trưng của nó thường được người tiêu dùng lớn tuổi hoặc người trưởng thành ưa chuộng hơn.
Thế hệ thanh thiếu niên – những người trẻ tuổi hơn dường như ăn ít thủy sản. Do đó, trong vài năm tới, ngành thủy sản sẽ phải tiếp tục phát triển nhiều chiến lược nhằm nâng cao lượng tiêu thụ ở nhóm khách hàng trẻ em và người trẻ.
Trong một bài báo gần đây trên New York Times, tác giả đã chỉ ra tương lai đáng lo cho ngành thủy sản khi trường học đóng cửa và các bữa tiệc thôi nôi trở nên hiếm hơn cả đám tang do tỷ lệ sinh giảm mạnh đến giữa thế kỷ. Theo tác giả này, chính sách sinh một con của Trung Quốc (hiện đã được sửa đổi), xu hướng gia đình nhỏ sinh ít con tại các quốc gia phát triển và xu hướng bình đẳng giới, phát triển nhiều cơ hội việc làm hơn cho phụ nữ đều đang đe dọa tương lai ngành thủy sản, bởi đây sẽ là các yếu tố tác động tiêu cực đến lượng tiêu thụ thủy sản.
Yêu tố vĩ mô thứ hai đó là biến đổi khí hậu. Cá tự nhiên có lượng khí thải carbon thấp hơn hẳn so các loại động vật nuôi khác. Khi Chính phủ các nước nỗ lực từng bước để giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu, họ vẫn hỗ trợ sản xuất thủy sản làm thực phẩm truyền thống cũng như các ngành mới hơn như sản xuất rong biển nhưng phải đi đôi với yêu cầu về giảm thải carbon nhất định.
Các sản phẩm thịt và sữa đã bị phân loại vào nhóm “lựa chọn dinh dưỡng kém” đối với những người tiêu dùng quan tâm đến khí hậu. Do đó, với những người chưa sẵn sàng ăn chay, thì thủy sản là một sự thay thế rõ ràng. Đáng nói, ngành NTTS hiện đã thực hiện hàng loạt cải tiến công nghệ về phương pháp sản xuất thức ăn và chăn nuôi, khai phá tiềm năng để nâng cao sản lượng bằng cách phá vỡ những rào cản kìm hãm sản xuất trong các hệ thống nuôi lồng gần bờ cũng như sự phụ thuộc vào các bột cá và dầu cá để chế biến thức ăn.
Nuôi biển và nuôi trên cạn đã được thương mại hóa và sẵn sàng mở rộng quy mô lớn, trong khi protein côn trùng, vi khuẩn chuyển hóa methane cùng với dầu tảo có thể trở thành các phụ gia quyền năng. Thậm chí tốt hơn nữa khi các thành phần thức ăn mới này có thể thay thế được các nguồn đạm và dầu thực vật xuất phát từ nạn phá rừng làm đất canh tác, tốn kém nước tưới tiêu, phân bón, thuốc trừ sâu để tăng sản lượng, điển hình là cây đậu tương. Ở mức độ ngành công nghiệp, tổn thất lớn do khai thác trái phép bắt đầu được kiểm soát. Những lợi thế về hệ thống giám sát tàu biển đang được tăng lên nhờ sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo.
Khi ngành thịt chay tự tạo dựng được chỗ đứng trên các kệ hàng trong siêu thị, hoặc nhà hàng, thì những ngành công nghiệp sản xuất thịt, gia cầm, sữa cũng không dễ dàng ngồi yên để thị phần bị lấy mất. Các cuộc cạnh tranh luôn không ngừng tiếp diễn. Do đó, ngành thủy sản còn nhiều việc phải làm để chấm dứt cuộc chiến nội bộ giữa cá nuôi và cá tự nhiên, đảm bảo với người tiêu dùng rằng nhiều lời chỉ trích cá nuôi không có cơ sở, là sự cường điệu hoặc đã lỗi thời và cần nâng cao giá trị bằng cách giảm tổn thất suốt chuỗi cung ứng. Nếu làm được những việc này, tương lai ngành thủy sản sẽ sáng.
Chuyên gia tư vấn NTTS, GAA