(TSVN) – NTTS liên tục mở rộng là động lực thúc đẩy nhu cầu tìm kiếm nguồn protein bền vững và hiệu quả về dinh dưỡng cũng như chi phí. Cải canola là cây hạt dầu có diện tích trồng trọt lớn thứ 2 trên thế giới, sau đậu tương, tập trung tại Canada, bắc Âu và Australia. Với sản lượng hàng năm 50 triệu tấn, canola cung cấp hơn 10 triệu tấn protein chất lượng cao.
Botaneco, một công ty sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tại Canada vừa phát triển quy trình mới có thể tạo ra sản phẩm tinh chất protein đậm đặc (75%) từ cải canola, đồng thời loại bỏ hoàn toàn các yếu tố kháng dinh dưỡng. Theo thử nghiệm ban đầu, thành phần protein mới an toàn và kích thích tính thèm ăn ở vật nuôi.
Hàng loạt nghiên cứu dinh dưỡng đã được thực hiện để đánh giá khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng trong môi trường nước mặn và nước ngọt; đồng thời xem xét hiệu quả lâu dài của tinh chất cải canola Alofin trong các khẩu phần dành cho cá hồi Atlantic. Các nghiên cứu này đều diễn ra tại Trung tâm công nghệ NTTS, đảo Prince Edward, Canada.
Cá hồi Atlantic (trọng lượng trung bình ban đầu 57,3 ± 6,7 g) được cho ăn bằng tay theo 4 chế độ thức ăn cơ bản (51,2% protein thô; 19,1% lipid thô; vật chất khô) và bổ sung các tỷ lệ Alofin khác nhau. Khẩu phần thức ăn cơ bản (A) không chứa Alofin. Sau đó, pha loãng A với 10%, 20% và 30% Alofin để tạo ra các khẩu phần thử nghiệm B (Alofin 10); C (Alofin 20) và D (Alofin 30). Mỗi chế độ ăn được phân chia ngẫu nhiên vào ba bể nước ngọt 100 L trong hệ thống tuần hoàn (RAS) và tiến hành thu gom phân cá hàng ngày bằng phương pháp lắng trong 34 ngày. Titanium dioxide (0,5%) được dùng làm chỉ số tiêu hóa.
Với các thành phần chất dinh dưỡng dễ tiêu hóa, Alofin có tiềm năng trở thành nguồn protein thay thế giá trị trên thị trường thức ăn cho cá hồi với hệ số tiêu hóa biểu kiến trung bình (ADC, % vật chất khô) của protein thô là 91,6% ± 5,5%. ADC trung bình của các axit amin thiết yếu (EAA) dao động 84,7% ± 8,2% với leucine; 97,5% ± 7,8% với tryptophan; 90,9% ± 6,3% với lysine và 93,9% ± 5,3% với methionine. Alofin cũng không ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa dù bổ sung ở bất cứ tỷ lệ nào.
Cá hồi giống Atlantic (227 ± 4,1 g) được cho ăn bằng tay theo 4 khẩu phần cơ bản bổ sung tỷ lệ Alofin giống hệt thử nghiệm trước. Mỗi chế độ ăn được phân bổ ngẫu nhiên vào 4 bể 750L RAS trong nước mặn 25 ppt. Tiến hành thu thập phân hàng tuần bằng phương pháp thủ công trong 55 ngày. Titanium dioxide (0,5%) được dùng làm chỉ số tiêu hóa.
Chất dinh dưỡng trong Alofin rất dễ tiêu hóa trong nước mặn. Hệ số tiêu hóa biểu kiến trung bình (ADC) với protein thô là 95,6% ± 2,9%. ADC trung bình của các axit amin thiết yếu (EAA) với threonine, arginine, lysine và methionine lần lượt là 93,8% ± 2,3%; 98 ± 2,2%; 95,7% ± 2,1% và 97,1% ± 2%. Alofin cũng không ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa dù bổ sung ở bất cứ tỷ lệ nào.
Tiến hành đánh giá các tỷ lệ bổ sung Alofin (0, 10, 15, và 20%) ở cá hồi Atlantic giai đoạn con giống (228 ± 4,9 g) trong nghiên cứu tăng trưởng kéo dài 6 tháng. Tám chế độ ăn thử nghiệm chứa các tỷ lệ Alofin khác nhau: A, E (0%); B, F (10%); C, G (15%) và D, H (20%) được phân bổ ngẫu nhiên vào 24 bể 750 L với mật độ 33 con/bể. Nghiệm thức A, B, C, D được xây dựng theo công thức chứa protein động vật chế biến (PAPs), trong khi nghiệm thức E, F, G, H không chứa PAPs.
Lượng ăn và tốc độ tăng trưởng không bị ảnh hưởng đáng kể khi bổ sung Alofin. Tỷ lệ biến đổi thức ăn (FCR) tốt nhất được ghi nhận ở mức bổ sung Alofin 10%. Kết quả kiểm tra mô học cho thấy Alofin không gây tác dụng phụ. Nhóm nghiên cứu kết luận, Alofin là protein thay thế an toàn và giàu dinh dưỡng ở tỷ lệ bổ sung tối thiểu 20% trong khẩu phần ăn của cá hồi.
Botaneco đã tiến hành nghiên cứu xác định hiệu quả của Alofin khi thay thế bột cá trong khẩu phần ăn của TTCT. Nghiên cứu tập trung đánh giá hiệu suất tăng trưởng, tỷ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng và đề kháng của tôm ở nhiều mức bổ sung Alofin. Alofin (78,9% protein thô) ở tỷ lệ 5, 10, và 20% thay thế bột cá 65% ở các tỷ lệ bột cá tương ứng 5,7%; 11,5% và 20%. Như vậy, ở tỷ lệ 20%, Alofin thay thế hoàn toàn bột cá và 7% khô đậu trong chế độ ăn.
Thử nghiệm kéo dài 8 tuần trên TTCT (~2,6 g) trong nước mặn 10 – 15 ppt, với mật độ 25 con/bể và 6 lần lặp lại. Tôm được cho ăn 3 lần/ngày ở mức 3 – 4% trọng lượng cơ thể. Vào cuối thử nghiệm, tăng trọng và tộc độ tăng trưởng riêng của tôm được cho ăn 5 – 20% Alofin vượt trội so với nhóm tôm không ăn Alofin. Ở mức bổ sung này 5 -10%, Alofin cải thiện FCR trong suốt 6 tuần và giữ nguyên sau 8 tuần. Các hệ số tiêu hóa protein (86%), lipid (96%), phốt pho (96%) và năng lượng (79%) đều cao. Khả năng miễn dịch của tôm được cải thiện khi bổ sung Alofin trong điều kiện bình thường (không thử thách) và sau thử thách với Vibrio parahaemolyticus. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng ghi nhận nhiều kết quả tích cực sau khi tôm được cho ăn Alofin như hoạt tính phenoloxidase tăng, số lượng Vibrio trong ruột giảm và tỷ lệ sống tăng cao sau thử thách.
>> Các kết quả trên là bằng chứng cho thấy, Alofin có tiềm năng thay thế bột cá ở tỷ lệ bổ sung 5 – 20%. Alofin tiêu hóa protein và lipid ở mức cao, đồng thời cải thiện hiệu suất tăng trưởng, khả năng miễn dịch để chống lại Vibrio parahemolyticus.
Dũng Nguyên
Theo Aquafeed