(TSVN) – Hệ thống RAS không phụ thuộc vào dòng nước tự nhiên liên tục mà làm sạch và tái sử dụng nước. Tại Mỹ và châu Âu, hệ thống RAS là giải pháp bảo vệ môi trường tự nhiên, không lây lan mầm bệnh.
Bờ biển ghồ ghề và lạnh giá ở phía Bắc Na Uy, ngoài vòng Bắc Cực không phải là vùng đất lý tưởng để canh tác nông nghiệp. Nhưng cách đó không xa là Salten Smolt, một trong những trại nuôi thủy sản tiên tiến nhất thế giới. Bên trong tòa nhà chính rộng 7.000 m2 của Salten là những bể nuôi có khả năng sản xuất 8 triệu con cá hồi Atlantic non mỗi năm.
Nuôi thủy sản là mô hình sản xuất thực phẩm phát triển nhanh nhất thế giới. Theo Tổ chức OECD, dân số và thu nhập tăng sẽ thúc đẩy lượng tiêu thụ thủy sản toàn cầu đạt 180 triệu tấn vào cuối thập kỷ này, tăng từ mức 158 triệu tấn vào năm 2020. Ngân hàng Thế giới thống kê 90% nghề cá toàn cầu đang hoạt động quá mức khiến đại dương suy kiệt. Do đó, phần lớn mức tăng về tiêu thụ thủy sản từ năm 1990 đều nhờ vào các sản phẩm từ nuôi trồng.
Tuy nhiên, giống như canh tác trên đất liền, nuôi thủy sản cũng gây thiệt hại tới môi trường. Nhiều loài cá được nuôi trong lồng lưới trên sông hay biển gây ô nhiễm vùng nước xung quanh từ chất thải và thức ăn thừa. Khi lồng lưới bị thủng, cá thoát ra ngoài còn đe dọa hệ sinh thái địa phương. Các trại nuôi cá tuần hoàn trên cạn cần nguồn nước ngọt liên tục từ sông hoặc giếng, cạnh tranh với nguồn cung nước uống của người dân. Nuôi cá gần nhau có nguy cơ bùng phát dịch bệnh và ký sinh trùng, đòi hỏi thuốc kháng sinh và thuốc khác.
Trước các thách thức đó, trang trại Salten Smolt đã tìm đến mô hình nuôi thủy sản tuần hoàn RAS. Hệ thống RAS không phụ thuộc vào dòng nước tự nhiên liên tục mà làm sạch và tái sử dụng nước. Chúng ta không bàn tiếp về những lợi ích của hệ thống nuôi thủy sản RAS vì mô hình này đã quen thuộc với người nuôi thủy sản trên thế giới. Thế nhưng, không phải trang trại nào cũng có ý thức đầu tư vào hệ thống RAS một cách nghiêm túc và chuyên nghiệp.
Trong hệ thống RAS chuẩn, nước càng sạch thì càng tăng tuần hoàn và giảm thiểu nguồn cung nước bổ sung bên ngoài. Một vòng lặp hoàn toàn khép kín đôi khi bị đánh giá thiếu thực tế. Tuy nhiên, các hệ thống hiện đại như của Salten Smolt, lượng nước sử dụng có thể giảm hơn 99%. Các trại nuôi cá hồi truyền thống tiêu thụ khoảng 50.000 lít nước cho mỗi kg cá được sản xuất. Nhưng một hệ thống RAS chuẩn chỉ cần 150 lít. Tại Mỹ và châu Âu, hệ thống RAS là giải pháp bảo vệ môi trường tự nhiên, không lây lan mầm bệnh.
Một nhược điểm lớn nhất của RAS là chi phí cao hơn đáng kể so với các trại nuôi thủy sản truyền thống. Ngay tại Na Uy, nơi khoảng một nửa trang trại cá hồi sử dụng mô hình RAS, nhưng cũng chỉ giới hạn ở giai đoạn đầu tiên trong vòng đời của cá. Các giai đoạn sau, cá hồi được chuyển sang hệ thống lồng mở trên biển. Đến nay các trại nuôi cá RAS vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. ASC – một tổ chức bền vững của Hà Lan cho biết, chưa đến 5% trại nuôi đạt chứng nhận của tổ chức này sử dụng dụng hệ thống RAS. Nhưng nhu cầu tiêu thụ hải sản trên thế giới đang tăng lên không ngừng, tỷ lệ các trại RAS chắc chắn sẽ tăng, bởi tương lai của nghề nuôi cá là ở “trên cạn”.
Viện NTTS, Đại học Stirling