Đêm Trà Cổ. Trái ngược với sự ồn ào ban ngày do hàng nghìn khách du lịch kéo đến vào dịp cuối tuần, bãi biển đẹp bậc nhất vùng Đông Bắc (cách thành phố Móng Cái, Quảng Ninh 8km) vào buổi đêm tĩnh lặng lạ thường.
Phóng mắt tìm ra xa lắm mới thấy một bóng người như nhân ảnh mờ đi trong sương biển. Thi thoảng, sóng lại ào ạt kéo nhau tới, như muốn phá tan sự tĩnh lặng trên bờ cát… Nhưng, đó chỉ là sự tĩnh lặng trên bờ. Chỉ cách bãi tắm Trà Cổ chừng 3-4km đường chim bay, một “thành phố nổi” sáng rực ánh đèn như mời gọi du khách ưa khám phá. Nơi đó là cuộc sống của ngư dân Trà Cổ vào ban đêm – “thành phố” của những người câu mực…
“Thành phố nổi” lên đèn…
5 giờ chiều, hầu hết mâm cơm đã dọn ra trên thềm nhà của ngư dân Trà Cổ. Bữa tối được chuẩn bị sớm để những người trai còn khởi hành chuyến câu mực lúc 6 giờ, và được dọn ra ngoài thềm để hưởng gió mát từ biển thổi về. Khi tôi đến, gia đình ông Nguyễn Văn Thêm (khu Nam Thọ, phường Trà Cổ, TP Móng Cái) cũng đã quây quần bên mâm cơm rồi. Bữa cơm của gia đình một lão ngư Trà Cổ thịnh soạn hơn tôi tưởng. Cá đục rán giòn, cá tráp nấu riêu chua, mực xào cần tây, mực luộc lá ổi… Nếu bữa ăn ấy ở nhà một người dân phố bình thường, thì hẳn là nhà đó hôm nay có khách. Nhưng ở Trà Cổ thì đó lại là một bữa ăn rất bình thường, bởi theo lời ông Thêm, thì: “Mình làm ra được, mình phải hưởng thứ ngon nhất trước đã chứ!”. Xem ra “cái chất” này của ông Thêm giống với bà con miệt vườn ở Nam Bộ hơn là với bà con ngư dân ở các vùng biển Bắc bộ khác. Như với ngư dân ở đảo Hà Nam (thị xã Quảng Yên) chẳng hạn, thì đánh bắt được con nào tươi ngon nhất, người ta chỉ dành để bán…
Anh Nguyễn Văn Nhiêm vác cột đèn cao áp (đồ nghề không thể thiếu của người câu mực) ra bè, chuẩn bị khởi hành chuyến câu đêm.
Thanh, con trai lớn của ông Thêm, gắp cho tôi con mực luộc to nhất đĩa. “Đây là mực em câu đêm qua, nhưng vẫn còn tươi ngon lắm. Con này có cơm xôi (trứng mực – TG), anh ăn thử xem!” – Thanh vồn vã. Con mực Thanh gắp cho tôi là loại mực ống, thân dài và nhỏ, chỉ bằng 2 ngón tay. Dù không nêm mắm, muối khi luộc, nhưng ăn mực vẫn thấy vị đằm, chấm với tương ớt, hay mắm tôm mới cảm nhận thấy hết vị ngon, ngọt của nó.
Mực Quảng Ninh vẫn được những miệng ăn khó tính đánh giá là ngon nhất. Có nhiều loại mực, nhưng mỗi vùng lại có những loại mực đặc trưng khác nhau. Cô Tô, Vân Đồn nổi tiếng với mực mai, mực lá thân to, thường đem phơi để thành món mực khô đặc sản; vùng biển Quảng Yên lại có món mực sim, thân tròn đen mọng như quả sim chín, tuy nhỏ nhưng vị ngon ngọt của nó thì khó có loại mực ở đâu so bì được… Còn Trà Cổ thì nổi tiếng với con mực ống. Loại mực này có ở khắp nơi, nhưng ở Trà Cổ, thịt nó giòn và ngọt đậm hơn cả. Mực ống con to cũng có thể đem phơi để thành món mực khô ngon, nhưng nhiều nhất vẫn là những con nhỏ, thường bằng 2 ngón tay, hợp để làm món luộc hay món xào hơn…
Gỡ mực.
Mùa mực ống ở Trà Cổ diễn ra từ tháng 3 đến tháng 6 âm lịch. Đây là thời gian mực vào gần bờ để sinh sản, sang tháng 6, đàn mực lại kéo ra khơi. Ba tháng ấy cũng là mùa câu mực của ngư dân Trà Cổ. Chỉ cần chi phí khoảng 100.000 đồng tiền dầu, nổ máy phóng ra biển vài hải lý và thắp đèn cao áp dụ mực là đã có thể câu được cả chục cân mực (giá từ 150.000-300.000 đồng/kg) mỗi đêm. Mùa câu mực, biển Trà Cổ lung linh ánh đèn, rực rỡ như một thành phố nổi…
Săn mực cuối mùa
“Đừng mặc quần dài, vì phải lội nước một đoạn mới lên được bè đấy!” – Nguyễn Văn Nhiêm (con trai út ông Thêm) vừa dặn dò vừa ném cho tôi chiếc quần soóc. Mặc dù mới chỉ 21 tuổi nhưng với thân hình cao lớn, cường tráng, nước da đen bóng, trông anh thật ra dáng một ngư dân dày dạn kinh nghiệm. Nhiêm kể: “Em đi biển từ hơn chục năm rồi, nhưng gọi là “dân chuyên nghiệp” thì chỉ từ 3 năm nay, sau khi tốt nghiệp cấp 3. Nói thật, cứ đi nhiều, làm nhiều rồi kinh nghiệm nó ngấm vào mình ngày một nhiều lên thôi…!”.
Nhiêm vác cột đèn, còn Thanh và Phòng (anh rể Nhiêm) đẩy bè ra vùng nước lớn để nổ máy. Chúng tôi đóng vai mấy anh loong toong, cũng sắp cái này, xếp cái nọ cho ra vẻ mình cũng không hề nhàn rỗi…
Tới 10 giờ đêm, sàn bè đã trải đầy những thân mực trắng.
18 giờ 30 phút, bãi biển Trà Cổ đã vắng bóng gần hết những chiếc bè, mảng neo đậu ban chiều. Chúng tôi khởi hành hơi muộn so với mọi người vì mải hàn huyên lúc ăn cơm. Thanh nổ máy cho bè chạy gần hết tốc lực. Dân Trà Cổ có khoảng 70 chiếc bè. Bè được đóng bằng gỗ, nhưng bên dưới đáy đệm thêm một lớp xốp dày, vì sóng gió ở đây thường lớn hơn những vùng biển khác, dù bè có lật cũng không thể chìm được. Chi phí cho việc sắm mới một chiếc bè khoảng 30 triệu đồng, nhưng để lắp máy và mua sắm đồ nghề cũng phải ngót trăm triệu. Mỗi chiếc bè đều có gắn 1-2 máy, đồ nghề là lưới, vợt, câu. Đây là phương tiện cơ động để ngư dân Trà Cổ hành nghề quanh năm. Mùa nào thức ấy. Từ tháng chạp đến tháng ba là mùa vớt sứa, từ tháng ba đến hết tháng sáu là mùa câu mực kết hợp đánh lưới cá đục, sang tháng bảy lại là mùa lưới ghẹ… Cứ thế, chiếc bè gỗ đệm phao xoay vần quanh vùng biển Trà Cổ, Vĩnh Thực, Vĩnh Trung, Hòn Ngọc… làm kế sinh nhai cho biết bao gia đình ngư dân lam lũ.
19 giờ kém 5 phút, bè chúng tôi dừng lại ở một điểm mà xung quanh khá vắng vẻ, ít bè câu mực. Nhiêm cắm cây cột đèn, nổ máy thắp đèn cao áp. Ánh sáng loá và tiếng máy nổ đã phá tan sự tĩnh lặng của cả một vùng biển đêm. 4 gã đàn ông, mỗi người một góc, bắt đầu thả những lưỡi câu đầu tiên xuống biển.
“Câu mực ống là dễ nhất trong nghề đi biển đấy!” – Thanh nói vọng từ mũi bè. Cứ nhìn cái vẻ nhẩn nha, vừa câu vừa hút thuốc lá, nói chuyện, chốc chốc lại kéo lên một con mực của anh em họ là đủ biết. Lưỡi câu mực là một lưỡi chùm, có nhiều mũi câu xếp thành vòng tròn nhỏ. Bên dưới mũi câu là một miếng nhựa hình con cá, có gắn dạ quang để dụ mực. Giống mực ưa ánh sáng và ham mồi. Cứ thấy ánh sáng là chúng kéo tới và khi đã nhìn thấy mồi là không bao giờ chịu bỏ. Người câu mực chỉ cần thả câu xuống, thỉnh thoảng giật cước để lưỡi câu lên xuống, như hình con cá đang bơi. Mực dính câu là phun ngay lớp mực đen ngòm – thứ vũ khí khi gặp kẻ thù – nên khi kéo lưỡi câu lên để gỡ mực, nếu không cẩn thận sẽ bị mực phun thứ chất lỏng đó vào mặt…
Dù là người câu được ít mực nhất, nhưng tôi lại là người lem luốc nhất trong số 4 anh em. Ngay khi con đầu tiên dính lưỡi câu của tôi được kéo lên, tôi đã bị mực bắn thành dòng trên mặt. Nhưng cảm giác vui sướng khi lần đầu tiên câu được con mực khiến tôi chẳng để ý tới điều gì khác nữa. Đêm càng khuya, mực kéo tới càng nhiều. Thanh, Phòng và Nhiêm giật lưỡi câu liên tục. Tới 10 giờ tối thì sàn bè đã trải đầy những thân mực trắng, ước chừng 7-8kg. “Sao không cho mực vào thùng rồi đổ nước biển để mực sống?” – Tôi hỏi. “Có làm như vậy thì chỉ một tiếng sau là mực cũng chết thôi vì không đủ oxy, với lại để đến hôm sau thì mực vẫn còn tươi, không lo bị ế!” – Phòng nói.
Trong lúc Thanh cầm lái hướng về bờ, Phòng kể cho tôi nghe câu chuyện về những người làm nghề biển ở Trà Cổ. Phòng là đời thứ 4 trong gia đình làm nghề chài lưới. Trước đó thì không biết, nhưng cả đời ông bà, đến bố mẹ Phòng đều gắn với cái nghề quanh năm lênh đênh trên biển. Mùa nào thức ấy. Đến mùa mực thì rủ nhau đi câu mực, hết mùa thì lại chuyển sang đánh cá, lưới ghẹ, bắt tôm. Từ xưa đến nay vẫn vậy, chỉ khác là bây giờ có thuyền gắn máy, lưới không phải tự đan…
Bữa tiệc bia lạnh nhắm với mực tươi luộc lá ổi của chúng tôi kéo dài tới gần một giờ đêm ở nhà Thanh. Chưa bao giờ tôi được ăn mực ngon đến thế! Hẳn vì mực tươi vừa mới câu lên rồi quẳng vào nồi, nhưng cũng thêm phần hấp dẫn vì được thưởng thức mực do chính tay mình câu được. Thanh bảo, đi câu mực mà có nhà báo tham gia vui thật! Khi nào có dịp ra Trà Cổ lại ới nhau, anh em Thanh “sẵn sàng phục vụ”…
Tôi cảm thấy lâng lâng, không biết vì có chút “hơi men” hay vì cái không khí ấm áp, chân tình mà những người ngư dân chấc phát, tốt bụng như anh em Thanh đã dành cho mình. Nhìn ra ngoài xa, biển đang dâng, sóng thi thoảng lại ào lên trong màn đêm tối sẫm. Chỉ vài tiếng nữa thôi, bình minh trên biển Trà Cổ lại bắt đầu…