(TSVN) – Với hơn một phần ba kim ngạch phụ thuộc vào thị trường Mỹ, đòn thuế như “cơn sóng dữ” đánhvào chuỗi cung ứng, đe dọa hàng triệu việc làm và buộc ngành tôm Ấn Độ phải tái định hướng.
Ngành xuất khẩu thủy sản Ấn Độ đang trải qua giai đoạn khắc nghiệt kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump bất ngờ áp mức thuế 25% với hàng hóa Ấn Độ vào đầu tháng 8, viện dẫn lý do mất cân bằng thương mại và chống bán phá giá. Cú đánh thứ hai giáng xuống chỉ ba tuần sau, khi Washington bổ sung thêm 25% thuế phạt vì New Delhi mua năng lượng từ Nga, nâng tổng mức thuế lên tới 50%.
Mỹ hiện là thị trường lớn nhất của thủy sản Ấn Độ, chiếm gần một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhưng với thuế nhập khẩu mới, tổng gánh nặng thuế mà thủy sản Ấn Độ phải chịu khi vào Mỹ đã tăng lên gần 60%, bao gồm cả thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng. Từ mức thuế tổng cộng khoảng 10% lên tới gần 60% chỉ trong một tháng, điều này khiến xuất khẩu sang Mỹ gần như không thể khả thi.
Hệ quả đã sớm xuất hiện: các lô hàng bị chậm, chuỗi cung ứng tắc nghẽn, chi phí tăng cao. Ông Alex K. Ninan, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xuất khẩu Thủy sản Ấn Độ (SEAI), cho biết: “Chúng tôi vẫn đang đánh giá thiệt hại, nhưng hàng chục nghìn tỷ rupee giá trị thương mại đã bị chặn lại, ảnh hưởng tới hàng triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp”.
Theo chuyên gia Ian Goulding, Chủ tịch Hiệp hội Thanh tra thủy sản quốc tế (IAFI), khoảng một phần ba xuất khẩu của Ấn Độ đi Mỹ, 10 – 12% sang EU và gần 20% sang Trung Quốc. Việc tái cân bằng thị trường là cần thiết nhưng đòi hỏi thời gian và đầu tư đáng kể.
Theo SEAI, xuất khẩu thủy sản của Ấn Độ trong tháng 9/2025 giảm 30 – 35% so cùng kỳ năm trước, khiến nhiều nhà máy ở Andhra Pradesh phải tạm ngừng hoạt động. Ông Pushan Sharma, Giám đốc Crisil Intelligence, cho biết: “Nhu cầu từ các đại lý chuyên xuất sang Mỹ gần như biến mất. Một số chỉ gom lô nhỏ, còn các nhà nhập khẩu lớn đang chuyển hướng sang nguồn cung khác”. Trước làn sóng suy giảm này, Chính phủ Ấn Độ khẩn trương thúc đẩy chiến lược đa dạng hóa thị trường. Bộ trưởng Thủy sản Rajiv Ranjan Singh Lalan khẳng định EU và Nga là hai hướng đi tiềm năng, song các chuyên gia cảnh báo rằng việc mở thị trường mới không thể diễn ra trong một sớm một chiều. Ngay cả trong điều kiện thuận lợi, quá trình này cũng cần 6 – 12 tháng.
Ngoài ra, các quy định kiểm dịch và tiêu chuẩn vi sinh giữa các quốc gia có sự khác biệt lớn, gây khó cho nhà xuất khẩu.
Vấn đề lớn nhất vẫn nằm ở cơ cấu sản phẩm. Tôm nuôi chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Ấn Độ, trong đó Mỹ từng nhập tới 40%. Mỗi năm, Ấn Độ xuất khoảng 400.000 tấn tôm sang Mỹ, trong khi toàn bộ các thị trường khác cộng lại chỉ tiêu thụ khoảng 100.000 tấn. Điều đó đồng nghĩa, nếu Mỹ đóng cửa, Ấn Độ phải tìm đầu ra cho 300.000 tấn tôm dư thừa.
Một số hiệp định thương mại tự do (FTA) đang được đàm phán với EU và các đối tác khác, nhưng như Divya Kumar Gulati, Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất Thức ăn chăn nuôi Ấn Độ (CLFMA), nhận xét: “Lợi ích từ FTA chỉ phát huy dần theo thời gian, không thể cứu vãn tình hình trước mắt”.
Nhiều doanh nghiệp cũng thừa nhận việc tìm khách hàng mới là rất khó. “Tất cả đều đang ráo riết săn khách, trong khi giá bán giảm, khiến nông dân nuôi tôm bị ép giá nặng nề”, ông Yogesh Gupta, Giám đốc Megaa Moda (Kolkata) chia sẻ. Các thị trường Nhật, Nga, Anh hay UAE có quy mô nhỏ và yêu cầu cao, nên chưa thể thay thế Mỹ.
Trong bối cảnh đó, các chuyên gia cho rằng chiến lược đa dạng hóa cần đi cùng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm và nguồn thu. Ông Aditya Dash, Giám đốc điều hành Ram’s Assorted Cold Storage, gợi ý: “Người nuôi có thể thử các loài mới, còn nhà máy nên chế biến thêm nhiều mặt hàng khác, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào tôm”.
Giữa vòng xoáy thuế quan và đơn hàng sụt giảm, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm
Ấn Độ còn đối mặt khủng hoảng vốn lưu động nghiêm trọng. Hàng tồn kho lớn, chi phí điện lạnh 24/7, lãi vay tăng, trong khi ngân hàng siết tín dụng khiến nhiều công ty rơi vào thế bế tắc. Sau khi thuế 50% có hiệu lực, các ngân hàng công bắt đầu rà soát danh mục tín dụng trong các ngành chịu ảnh hưởng nặng, trong đó có chế biến thủy sản.
Các doanh nghiệp vì thế kêu gọi chính phủ cấp thêm vốn lưu động, cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất và giãn nợ tương tự gói cứu trợ thời COVID-19.
Khi dòng tiền cạn kiệt, các doanh nghiệp buộc phải cắt giảm sản xuất. Nhưng giảm sản xuất đồng nghĩa sa thải công nhân, điều họ không muốn sau nhiều năm đầu tư đào tạo. Ngư dân cũng chịu tác động dây chuyền: giá tôm giảm, chi phí đi biển cao khiến nhiều người không còn mặn mà ra khơi.
Dù vậy, Ấn Độ vẫn nỗ lực duy trì xuất khẩu sang khoảng 130 thị trường toàn cầu. Một quan chức Bộ Thủy sản cho biết, ngoài việc tìm thị trường mới, chính phủ cũng đang khai thác thị trường Trung Quốc và châu Âu. Song ông thừa nhận, “đạt được thị phần đáng kể ở EU sẽ cần thêm thời gian vì yêu cầu tiêu chuẩn và truy xuất nguồn gốc rất khắt khe”.
Theo ông Goulding, hai cỡ tôm thương mại phổ biến nhất, 31/40 và 41/50, phần lớn đến từ Ấn Độ. Khi nguồn này suy giảm, người tiêu dùng Mỹ sẽ chịu thiệt đầu tiên. Ông gợi ý Ấn Độ có thể tận dụng các trung tâm chế biến tại Thái Lan hoặc UAE để tái xuất sang thị trường khác, một giải pháp tạm thời giúp duy trì dòng hàng.
Hiện Chính phủ Ấn Độ cũng đang đẩy nhanh chứng nhận bền vững quốc tế cho 10 nghề cá chủ lực, nhằm nâng giá trị xuất khẩu và mở rộng sang thị trường cao cấp. Tuy nhiên, ông Ninan thẳng thắn: “Quan hệ thương mại giữa Ấn Độ và Mỹ được xây dựng suốt nhiều năm, với hệ thống kiểm tra, đánh giá và chứng nhận xã hội nghiêm ngặt. Không thể thay thế chỉ sau một đêm”. Các chuỗi bán lẻ lớn như Walmart hay Costco vẫn phải tiếp tục mua hàng từ Ấn Độ do ràng buộc hợp đồng, nhưng giá giảm mạnh và tốc độ giao hàng chậm.
Ông Gulati kết luận: “Những lô hàng hiện nay chỉ là giải pháp tình thế trước mùa lễ hội. Câu hỏi thực sự là: các doanh nghiệp sẽ thích nghi và chuyển hướng nhanh đến đâu trước khi cơn bão thuế này cuốn trôi toàn bộ sinh kế của họ”.
TUẤN MINH
(Theo Seafoodnews/ Intrafish)