Artemia salina: Lợi thế và giải pháp phát triển ở đồng muối ven biển Việt Nam

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Artemia là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng, cung cấp protein, axit béo thiết yếu (HUFA/omega-3), vitamin và khoáng chất, giúp ấu trùng tôm, ấu thể cá khỏe mạnh, tăng sức đề kháng và tỷ lệ sống. Các đồng muối ven biển, đặc biệt vùng Nam Trung Bộ, có nhiều lợi thế để phát triển nuôi Artemia, góp phần xây dựng mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững, thân thiện với môi trường và giàu tiềm năng kinh tế.

Artemia salina thuộc Họ: Artemiidae, Bộ: Anostraca, Lớp: Branchiopoda, Ngành: Arthropoda (còn được gọi là tôm nước mặn). Artemia trưởng thành dài khoảng 8–12 mm (có thể tới 15 mm). Phân bố tự nhiên ở nhiều vùng nước mặn, hiện được nuôi và khai thác ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chu kỳ sống: Từ trứng → Nauplius → nhiều giai đoạn ấu trùng → trưởng thành. Sinh sản hữu tính (giao phối đực–cái) hoặc sinh sản đơn tính (Parthenogenesis). Sống trong nước mặn hoặc siêu mặn (25–250‰), như đầm muối, hồ nước mặn ven biển. Chịu được nhiệt độ từ gần 0°C đến trên 40°C (nhưng tối ưu 25–30°C). Trứng bào xác (Cyst) chịu được khô hoàn toàn và nhiệt độ khắc nghiệt.

Trong điều kiện nuôi hoặc tự nhiên thích hợp, Artemia trưởng thành thường sống được khoảng 2–4 tháng. Mỗi con cái có thể sản xuất được trung bình 200.000-300.000 trứng trong vòng đời. Cyst ở trạng thái ngủ (Cryptobiosis) có thể tồn tại nhiều năm, thậm chí hơn 10 năm trước khi nở.

Thức ăn của Artemia là Tảo đơn bào: Là các loài tảo lục (Chlorella, Scenedesmus, Dunaliella salina – giàu β-carotene, thường gặp ở đầm muối); Tảo khuê; Vi khuẩn: Vi khuẩn dị dưỡng và vi khuẩn quang hợp trong môi trường mặn; Các mảnh vụn hữu cơ lơ lững (Detritus) đang phân hủy và các vi sinh vật phù du khác.

Vai trò thiết yếu

Với hàm lượng dinh dưỡng cao, khả năng bảo quản dài hạn, thuận tiện trong vận chuyển và sử dụng, cùng kích thước nhỏ của Nauplius và trứng (phôi), Artemia đã trở thành nguồn thức ăn sống có giá trị đặc biệt trong ngành sản xuất giống thủy sản.

Nhu cầu trứng Artemia trong sản xuất thủy sản nội địa cũng như cho xuất khẩu đang tăng nhanh, với dự báo có thể đạt tới khoảng 3.000 tấn trứng khô mỗi năm trong tương lai gần. Tuy nhiên, sản xuất trong nước hiện mới chỉ đạt khoảng 9 tấn, tập trung chủ yếu ở các vùng sản xuất muối Nam Bộ, trong khi hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 700 tấn. Khoảng cách rất lớn giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trong nước không chỉ cho thấy sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết phải mở rộng nghiên cứu, đầu tư và phát triển sản xuất Artemia trong nước.

Ở Việt Nam, việc nuôi Artemia trên ruộng muối bắt đầu từ những năm 1980 tại các địa phương: Cam Ranh (Khánh Hòa), Cà Ná (Ninh Thuận) và Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Các hướng nghiên cứu chủ yếu: Đề tài 08A.04.04 “Nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi Artemia ở ruộng muối”, giai đoạn 1986–2000 (Vũ Văn Dũng & Bùi Thị Anh Vân); các nghiên cứu tại Trường Đại học Cần Thơ về nuôi, quản lý sinh thái – dinh dưỡng – vi sinh nhằm nâng cao năng suất sinh khối và trứng; chiến lược thu hoạch (thu tỉa định kỳ) và quản lý độ mặn; chọn giống (cyst nhỏ, thích nghi với điều kiện nóng) và so sánh các dòng (Vĩnh Châu và Great Salt Lake)…

 

Các nghiên cứu cho thấy, nếu kết hợp nuôi Artemia thì chất lượng muối cũng được cải thiện, trắng và tinh khiết hơn.

Trong giai đoạn 1986–1989, Viện Nghiên cứu Hải sản phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản III thực hiện đề tài 08A.04.04 thuộc Chương trình 08A, triển khai nuôi Artemia trên ruộng muối tại Cà Ná (Ninh Thuận) và đạt kết quả khả quan. Đề tài đã tuyển chọn được dòng Artemia San Francisco Bay có kích thước trứng nhỏ (mỗi gram trứng chứa khoảng 200.000 – 300.000 cyst), chất lượng cao (hàm lượng protein 55–60%, giàu axit béo không no PUFA và HUFA); đồng thời xây dựng mô hình nuôi Artemia kết hợp sản xuất muối, với năng suất trứng đạt 10–20 kg/ha, tùy thuộc độ sâu mực nước ruộng sản xuất muối. Các nghiên cứu cho thấy nếu kết hợp nuôi Artemia thì chất lượng muối cũng được cải thiện, trắng và tinh khiết hơn (nhờ Artemia lọc sạch vi tảo và chất hữu cơ lơ lửng trong nước).

Ngoài ra, Đề tài bước đầu đã thử nghiệm mô hình nuôi chuyên Artemia trong ao có độ sâu ≥ 60 cm, với thức ăn chính là tảo Dunaliella salina và có bổ sung thêm cám gạo nghiền nhỏ, cho kết quả khả quan. Đặc biệt, tại Ninh Thuận, nhờ lượng mưa thấp và mùa khô kéo dài, Artemia có thể tồn tại quanh năm và hình thành quần thể phân bố tự nhiên lâu dài tại các vùng sản xuất muối và tồn tại như một loài bản địa.

Ở S‰ từ 25 đến 70 – 80 độ mặn thấp nên Artemia đẻ con làm tăng mật độ quần thể. Tuy vậy ở độ mặn thấp 25 – 50/60% quần thể Artemia thường bị các loài địch hại ăn. S‰ từ 70 – 80 các loài cá thường nổ mắt chết nên Artemia phát triển nhanh. Ở mức độ mặn 90 – 110‰, Artemia bắt đầu chuyển dần sang hình thức sinh sản bằng trứng bào xác (cyst) song song với Nauplii. Khi độ mặn đạt ≥ 110‰, Artemia hầu như chỉ sinh sản ra trứng bào xác (cyst). Tuy vậy, trong điều kiện mật độ quần thể thấp, ngay cả ở độ mặn cao, Artemia vẫn có thể sinh sản ra con non – đây được xem là một giải pháp sinh tồn nhằm duy trì quần thể trong môi trường khắc nghiệt (Vũ Văn Dũng, 1988).

Thiếu chính sách cụ thể

Mặc dù nhu cầu trứng Artemia trong nước ngày càng tăng, Việt Nam có lợi thế tự nhiên và dư địa lớn để phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác, nhưng đến nay vẫn chưa hình thành được một ngành sản xuất quy mô thương mại đủ để chủ động đáp ứng nhu cầu trong nước và giảm phụ thuộc nhập khẩu.

Thực tế cho thấy, đã có những bước đi ban đầu đáng ghi nhận, như kết quả của đề tài 08A.0404 (từng đoạt huy chương tại Hội chợ ngành thủy sản năm 2000) hay các nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ. Tuy vậy, các kết quả này chưa được chuyển hóa thành chương trình phát triển ở tầm quốc gia.

Nguyên nhân chính có thể do việc định hướng chính sách chưa thực sự coi Artemia là một ngành chiến lược. Trong các văn bản quy hoạch và quyết định mang tính quốc gia, nội dung phát triển Artemia vẫn còn bị xem nhẹ, dẫn đến thiếu cơ chế hỗ trợ về vốn, hạ tầng và công nghệ. Ngoài ra, năng lực sản xuất trong nước còn phân tán, phụ thuộc chủ yếu vào mô hình nhỏ lẻ tại các vùng sản xuất muối, nên không tạo được quy mô kinh tế và chuỗi giá trị hoàn chỉnh.

Dẫu vậy, cũng cần ghi nhận rằng một số văn bản pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật đã được ban hành, như Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 11754:2016 quy định yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử đối với trứng bào xác Artemia (ban hành ngày 28/7/2016). Tuy nhiên, những văn bản này mới chỉ mang tính kỹ thuật, chưa đủ để định hình một chiến lược phát triển toàn diện, nhằm khai thác triệt để tiềm năng và giảm phụ thuộc nhập khẩu.

Phân vùng địa lý

Câu hỏi là với các tỉnh ven biển Việt Nam có điều kiện khí hậu khác nhau, trong đó ở đâu có lợi thế để phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác?

Điều kiện khí hậu tại các tỉnh ven biển Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt, dẫn đến mức độ thuận lợi khác nhau trong phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác:

Ven biển Nam Trung Bộ: Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8. Trong đó, khu vực ven biển Ninh Thuận có mùa mưa ngắn, tập trung chủ yếu trong các tháng 9–11, với lượng mưa trung bình hằng năm chỉ khoảng 700–800 mm. Tại Bình Thuận, mùa mưa kéo dài từ tháng 7–11 và mùa khô từ tháng 11–12 năm trước đến tháng 6–7 năm sau; lượng mưa trung bình năm khoảng 1.024 mm.

Ven biển Nam Bộ: Mùa mưa diễn ra từ tháng 5–6 đến tháng 11–12, còn mùa khô từ tháng 11–12 đến tháng 4–5. Một số địa phương, như Bạc Liêu, có mùa khô ngắn (từ tháng 12 đến tháng 4), trong khi lượng mưa hằng năm lại rất cao, đạt 2.000–2.300 mm. Điều kiện này gây khó khăn cho việc duy trì độ mặn ổn định, vốn là yếu tố quyết định để nuôi Artemia.

Kết quả khảo sát và dữ liệu khí tượng cho thấy: ven biển Ninh Thuận và Bình Thuận có mùa khô kéo dài và lượng mưa thấp nhất so với các tỉnh ven biển Việt Nam (700–1.024 mm/năm). Đây là điều kiện đặc biệt thuận lợi để phát triển nuôi Artemia thu trứng bào xác, cả theo mô hình kết hợp với sản xuất muối lẫn nuôi chuyên thâm canh.

Phát triển nuôi Artemia ở ruộng muối ở Việt Nam có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và tiềm năng thị trường, đặc biệt là khả năng phát triển giống thủy sản ngày càng cao. Nhưng không ít những khó khăn, thách thức về thời tiết, hạn chế về kỹ thuật và đầu tư; Thị trường và giá cả; Quy hoạch và chính sách còn tồn tại. Thách thức lớn nhất là thiếu quy hoạch chiến lược, phụ thuộc nhập khẩu và hạn chế trong công nghệ nuôi thâm canh.

Sơ đồ nuôi Artemia ở ruộng sản xuất muối ở đồng muối Cà Ná, Ninh Thuận

Ghi chú: Artemia được nuôi ở S‰ từ 60/70 đến 110/140

5 nhóm giải pháp

Để phát triển bền vững, cần đồng thời chú trọng ba trụ cột: khoa học – công nghệ, quản lý – chính sách, và thị trường – tổ chức sản xuất, với 5 nhóm giải pháp chính:

– Nghiên cứu – công nghệ: Chọn giống dòng nhiệt đới, trứng nhỏ, dinh dưỡng cao, sức sống tốt; Nghiên cứu gây nuôi các loài tảo làm thức ăn (Dunaliella salina, vi tảo khác), thức ăn bổ sung (cám gạo…); Quản lý sinh thái – vi sinh: tối ưu mật độ, chu kỳ thu hoạch, điều chỉnh độ mặn và sản xuất ổn định thức ăn tự nhiên.

– Quy hoạch – chính sách: Quy hoạch vùng nuôi gắn với sản xuất muối (Ninh Thuận, Bình Thuận, Sóc Trăng, Bạc Liêu); Ban hành chiến lược quốc gia, đưa Artemia vào quy hoạch thủy sản – muối biển; Hỗ trợ hạ tầng (cải tạo ao nuôi chuyên, ao nuôi kết hợp sản xuất muối, hệ thống cấp thoát nước) và Chính sách tín dụng, bảo hiểm cho hộ nuôi và hợp tác xã.

– Tổ chức sản xuất – liên kết: Mô hình liên kết 4 nhà (khoa học – quản lý – doanh nghiệp – ngư dân); Phát triển hợp tác xã/tổ hợp tác Artemia để sản xuất tập trung và kết hợp mục tiêu kép: xen canh muối – Artemia, nuôi thâm canh chuyên biệt.

– Thị trường – thương mại: Phát triển thị trường nội địa cho ngành tôm giống và thủy sản; Xây dựng thương hiệu quốc gia “Artemia Việt Nam”, hướng tới xuất khẩu và chuẩn hóa chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (TCVN, ISO, HACCP).

– Đào tạo – nâng cao năng lực: Tập huấn kỹ thuật cho diêm dân (quản lý độ mặn, dịch hại, thu hoạch – bảo quản); Đầu tư nghiên cứu tại các trường/viện và chuyển giao công nghệ qua dự án khuyến ngư, hội thảo, tài liệu…

Để phát triển bền vững nghề nuôi Artemia, Việt Nam cần xác định đây là ngành sản xuất bổ trợ mang tính chiến lược cho sản xuất tôm giống và cá giống cho nuôi biển. Sự phát triển phải dựa trên việc khai thác lợi thế tự nhiên của Ninh Thuận – Bình Thuận, kết hợp với chính sách hỗ trợ phù hợp, ứng dụng công nghệ nuôi thâm canh, và tổ chức sản xuất theo mô hình liên kết. Chỉ khi đồng bộ cả ba trụ cột nghiên cứu – chính sách quy hoạch – thị trường, nghề nuôi Artemia mới có thể phát triển ổn định, đáp ứng nhu cầu trong nước và từng bước hướng tới xuất khẩu.

Anh Vũ

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!