(TSVN) – Bệnh sữa là một trong những bệnh nguy hiểm thường xảy ra trên tôm hùm nuôi, nếu không biết cách phòng, điều trị hiệu quả người nuôi sẽ thiệt hại nặng nề.
Bệnh do vi khuẩn ký sinh nội bào giống như Rickettsia (Rickettsia like bacteria – RLB) gây ra.
Loài cảm nhiễm: Các loài tôm hùm được nuôi ở khu vực Nam Trung bộ thuộc họ tôm hùm gai Palinuridae, giống Panulirus gồm một số loài: tôm hùm bông (Panulirus ornatus), tôm hùm đá (P. homarus), tôm hùm tre (P. polyphagus).
Mùa xuất hiện bệnh: Bệnh thường xuất hiện bắt đầu từ tháng 4, bùng phát vào giữa mùa mưa (tháng 9 – 10).
Đường lây truyền: Bệnh lây truyền từ thức ăn bị ôi thiu, có mang mầm bệnh; từ tôm bị bệnh lây truyền sang tôm khỏe trong cùng một lồng hoặc gián tiếp qua môi trường nhiễm bệnh; từ lồng, bè có tôm bệnh sang lồng, bè khác trong vùng nuôi,.
– Tôm bệnh hoạt động kém, ít phản ứng với những tác động xung quanh.
– Tôm giảm ăn hoặc bỏ ăn hoàn toàn.
– Sau 3 – 5 ngày bị nhiễm bệnh, các đốt ở phần bụng của tôm chuyển từ “trắng trong” sang “trắng đục”.
– Mô cơ ở phần bụng chuyển sang màu trắng đục hay vàng đục, nhão, có mùi hôi.
– Dịch tiết của cơ thể (bao gồm cả máu) có màu trắng đục như sữa, số lượng tế bào máu giảm nhiều so với tôm bình thường, máu khó đông.
– Gan tụy chuyển màu nhợt nhạt và có trường hợp bị hoại tử.
– Ở mô liên kết gan tụy và trong máu tôm bị bệnh có từng đám dày đặc vi khuẩn ký sinh nội bào giống như Rickettsia.
– Tôm chết sau khoảng thời gian trung bình 9 – 12 ngày kể khi nhiễm tác nhân gây bệnh.
– Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các dấu hiệu bệnh lý đặc trưng của tôm bệnh.
– Chẩn đoán nhanh bằng phương pháp nhuộm mẫu tươi:
Dùng xi lanh 1 mL hút 0,1 – 0,2 mL máu từ tim của tôm bằng cách chọc mũi kim qua gốc của chân ngực số 5.
+ Nhỏ mẫu máu tôm thu được lên lam kính rồi dàn mỏng bằng lamen.
+ Để khô mẫu tự nhiên, hoặc hơ nhẹ lam kính lên ngọn lửa đèn cồn.
+ Cố định mẫu bằng cách nhúng lam kính 2 lần vào dung dịch methanol.
+ Nhuộm mẫu bằng dung dịch Giemsa trong 10 phút.
+ Rửa mẫu bằng dung dịch đệm Sorensen (pH = 6,8) trong 3 – 5 phút.
+ Quan sát mẫu đã nhuộm bằng kính hiển vi với độ phóng đại 400 – 1.000 x để phát hiện vi khuẩn giống như Rickettsia dạng hình que cong trong mẫu.
– Phương pháp mô bệnh học:
+ Trên mẫu tôm còn sống tiến hành giải phẫu để thu các mô đích: Gan tụy, mang, dạ dày.
+ Cố định trong dung dịch Davidson với tỷ lệ thể tích 1/10, nếu khối mô lớn cần tiêm thuốc cố định vào trước khi ngâm trong thuốc cố định.
+ Giữ trong dung dịch cố định từ 36 – 48 giờ, bảo quản trong cồn 70%.
+ Sau đó tiến hành cắt mẫu và nhuộm bằng Haematoxylin và Eosin theo phương pháp của tác giả Lightner (1996).
+ Quan sát mẫu đã nhuộm bằng kính hiển vi với độ phóng đại 400 – 1.000 x để phát hiện vi khuẩn giống như Rickettsia (RLB) dạng hình que cong trong mẫu.
– Phương pháp sinh học phân tử (PCR): Bệnh sữa trên tôm hùm có thể chẩn đoán bằng phương pháp sinh học phân tử (tham khảo quy trình của tác giả Lightner (2008) và của Tổ chức Thú y thế giới (OIE)).
– Chỉ nuôi trong vùng quy hoạch của địa phương.
– Địa điểm nuôi cách xa các cửa sông để tránh nước ngọt từ sông đổ ra trong mùa mưa làm giảm độ mặn gây sốc hoặc có thể nước sông bị ô nhiễm, có các chất độc hại.
– Đặt lồng nuôi tôm ở nơi có độ sâu tối thiểu khi triều thấp là 4 m (đối với nuôi lồng găm) hoặc từ 4 – 8 m (đối với nuôi lồng nổi).
– Khoảng cách giữa các lồng nuôi tôm trong cùng một bè phải đảm bảo tối thiểu 1 m; khoảng cách giữa các bè nuôi tôm phải đảm bảo tối thiểu 50 m.
– Lựa chọn tôm hùm giống đạt chất lượng tốt, khỏe mạnh; thời gian lưu giữ tôm giống từ thời điểm kết thúc khai thác ở biển đến thời điểm thả ương nuôi không quá 48 giờ.
– Khi thả giống cần đảm bảo các điều kiện để tôm giống thích nghi với môi trường nước mới, không bị sốc nhiệt độ, độ mặn.
– Thức ăn cho tôm tùm cần đảm bảo tươi, được bảo quản tốt, được sát trùng bằng cách ngâm thuốc tím nồng độ 3 – 5 mg/L, thời gian 15 – 30 phút, sau đó rửa qua nước ngọt sạch trước khi cho tôm ăn.
– Bổ sung premix (các loại vitamin trong đó có Vitamin C, axit amin, khoáng chất), hoạt chất MOS (sản phẩm thu được từ các vách tế bào nấm men Saccharomyces cerevisiae có thành phần đạm thô 15 – 30%, chất béo thô 0,7 – 1,4%, Fiber thô 6 – 13%), men tiêu hóa, trộn vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm.
– Thường xuyên theo dõi tình hình sức khỏe tôm, loại bỏ cá thể yếu, tăng cường vỏ lột xác và thức ăn dư thừa sau 2 đến 3 giờ cho ăn để hạn chế nguy cơ lây lan mầm bệnh, làm ô nhiễm cục bộ nền đáy và điều chỉnh lượng thức ăn vừa đủ. Định kỳ vệ sinh lồng nuôi tránh bị rong rêu bám làm bịt lỗ lưới.
– Không di chuyển lồng bè từ vùng nuôi có tôm bệnh sang vùng nuôi chưa xuất hiện bệnh nhằm hạn chế sự lây lan dịch bệnh.
– Trong quá trình đánh bắt, phân cỡ đàn tôm thao tác cần nhẹ nhàng, tránh xây xát cho tôm. Nếu để tôm bị tổn thương, các vi sinh vật gây bệnh sẵn có trong môi trường dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua các vùng tổn thương này.
Nguyên tắc điều trị: Chỉ điều trị tôm hùm bị bệnh nhẹ, khi dịch bệnh mới xuất hiện để hạn chế lây lan.
Phác đồ điều trị: Thực hiện theo TBKT 03-02:2017/BNNPTNT “Giải pháp điều trị bệnh sữa và bệnh đỏ thân trên tôm hùm nuôi lồng” ban hành theo Quyết định số 637/QĐ-TCTS-KHCN&HTQT, ngày 26/7/2017 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư). Cụ thể:
Bước 1: Tách và tiêu hủy các cá thể bị bệnh nặng, chỉ giữ lại những cá thể còn ăn được thức ăn để tiến hành điều trị.
Bước 2: Cho tôm ăn thức ăn trộn với kháng sinh Tetracyclin (thuốc dùng trong thú y) có bổ sung hoạt chất sinh học và chất kết dính.
Thứ tự thực hiện gồm chọn thức ăn tươi sống (cá liệt, cá mối,…) và cắt thức ăn thành từng miếng nhỏ phù hợp cỡ miệng tôm hùm theo từng giai đoạn nuôi. Lưu ý rửa thức ăn bằng thuốc tím nồng độ 2 – 3 ppm và để ráo thức ăn trong 10 phút trước khi cắt thành miếng nhỏ.
Sau đó, trộn thức ăn thức ăn đã được cắt thành các miếng nhỏ với thuốc kháng sinh Tetracyclin (dùng trong thú y thủy sản), hoạt chất sinh học (MOS) và chất kết dính (Binder) theo tỷ lệ 5 g kháng sinh + 5 g hoạt chất sinh học + 5 g chất kết dính/1 kg thức ăn. Tiến hành cho tôm ăn thức ăn đã được trộn thuốc liên tục trong 7 ngày, mỗi ngày 1 lần vào 17 – 18 giờ.
Sau 7 ngày dùng thuốc, nếu thấy tôm vẫn còn bệnh thì tiếp tục cho tôm ăn thức ăn có trộn thuốc trong vòng 3 ngày, mỗi ngày 1 lần vào lúc 17 – 18 giờ (trộn thức ăn như bước 2 nhưng giảm một nửa lượng kháng sinh Tetracyclin: tỷ lệ 2,5 g/1 kg thức ăn). Lưu ý tách những cá thể bị bệnh nặng ra khỏi lồng nuôi như bước 1.
Bước 3: Cho tôm ăn thức ăn bổ sung chế phẩm và hoạt chất sinh học (tiến hành ngay sau khi kết thúc bước 2). Cụ thể, người nuôi trộn thức ăn (thức ăn đã được xử lý như bước 2) với chế phẩm sinh học (có thành phần Bacillus spp, Lactobacillus spp, hàm lượng 103 cfu/g), hoạt chất sinh học (MOS) và chất kết dính (Binder) theo tỷ lệ: 5 g chế phẩm sinh học + 5 g hoạt chất sinh học + 5 g chất kết dính/1 kg thức ăn. Sau đó, cho tôm ăn thức ăn đã được trộn chế phẩm và hoạt chất sinh học liên tục trong vòng 7 – 10 ngày, mỗi ngày 1 lần vào lúc 17 – 18 giờ.
Người nuôi lưu ý, chỉ thu hoạch tôm sau ít nhất 22 ngày sử dụng kháng sinh Tetracyclin để điều trị bệnh sữa trên tôm hùm nuôi lồng.
Thanh Hiếu