Biện pháp kỹ thuật phòng chống bệnh vi bào tử trùng trên tôm nước lợ

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Bệnh do vi bào tử trùng gây ra trên tôm đến nay chưa có thuốc điều trị, sử dụng kháng sinh để phòng và trị bệnh không mang lại hiệu quả. Do đó, người nuôi cần thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh để giảm thiểu nguy cơ nhiễm bệnh.

Tác nhân gây bệnh

Tác nhân gây bệnh chậm lớn là EHP, thuộc họ Enterocytozoonidae. EHP được phát hiện lần đầu tiên trên các mẫu tôm sú (Penaeus monodon) chậm lớn nuôi tại Thái Lan. EHP ký sinh trong gan, tụy tôm và nhân lên bên trong tế bào chất của biểu mô ống gan, tụy. Bào tử trưởng thành có hình oval, kích thước 1,1 ± 0,2 pm X 0,7 ± 0,2 pm; EHP ký sinh nội bào và sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan, tụy khiến tôm không đủ dinh dưỡng, năng lượng cho sự tăng trưởng và lột xác.

Đặc điểm dịch tễ

– Tôm sú (Penaeus monodon), tôm thẻ chân trắng (P. vannamei), tôm he (P. japonicus, P. merguiensis) đều mẫn cảm với EHP ở tất cả các giai đoạn. Ngoài ra, EHP còn được phát hiện trên một số loài động vật thủy sinh khác như: giun đất, giun nhiều tơ (dời); giáp xác (cua, còng); động vật hai mảnh vỏ (ngao, sò, hàu,…) và Artemia.

– Bệnh do EHP đã được phát hiện tại nhiều quốc gia nuôi tôm lớn trên thế giới như: Thái Lan (2004), Malaysia (2014), Indonesia (2016), Trung Quốc và Ấn Độ (2016). Tại Việt Nam, bệnh đã được các địa phương ghi nhận và báo cáo từ năm 2015 đến nay.

– Bệnh do EHP thường được phát hiện nhiều trên các ao tôm nuôi đã nhiễm các bệnh khác (hội chứng chậm lớn, hội chứng phân trắng). Trong thực nghiệm, EHP không gây chết tôm nhưng gây tổn thương trên các ống gan tụy, giảm sức đề kháng, dễ bị nhiễm thứ phát các tác nhân gây bệnh khác dẫn đến chết. Ngoài ra, tôm nhiễm EHP có thể tăng tính mẫn cảm với một số bệnh như: Đốm trắng (WSD); Hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND),… và tỷ lệ chết có thể lên đến 100% trong khoảng thời gian ngắn.

– Bệnh do EHP có tốc độ lây lan nhanh theo đường truyền dọc (từ mẹ sang con) và truyền ngang do tiếp xúc với các cá thể bệnh trong quần đàn, do môi trường có mầm bệnh hoặc do ăn thức ăn tươi sống có mầm bệnh hoặc do các vật chủ trung gian (giáp xác, giun nhiều tơ,…).

Triệu chứng, bệnh tích

Tôm nhiễm EHP không có bệnh tích điển hình. Đối với các ao bị nhiễm EHP, tôm thường có kích cỡ không đồng đều sau khoảng 25 ngày thả nuôi. Tăng trưởng của tôm chỉ đạt từ 10 – 40% so với tôm ở các ao không nhiễm bệnh.

Chẩn đoán bệnh

Chẩn đoán lâm sàng: Do bệnh không có triệu chứng, bệnh tích điển hình và dễ nhầm lẫn với các bệnh khác nên việc chẩn đoán lâm sàng chỉ có tính hỗ trợ định hướng trong quá trình chẩn đoán, xét nghiệm bệnh.

Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm: Phương pháp mô bệnh học, nhuộm H&E hoặc Giemsa; các phương pháp sinh học phân tử đang được sử dụng (PCR, Nested PCR, LAMP và Realtime PCR) là công cụ chẩn đoán nhanh đối với bệnh do EHP.

Năm 2016, Cục Thú y (nay là Cục Chăn nuôi và Thú y) đã ban hành Tiêu chuẩn cơ sở số 03:2016/TY-TS kèm theo Quyết định số 545/QĐ-TY-TS ngày 06/9/2016 của Cục trưởng Cục Thú y để chẩn đoán bệnh do EHP bằng phương pháp PCR; Tiêu chuẩn này đã và đang được áp dụng tại các phòng xét nghiệm, chẩn đoán bệnh động vật của Cục Chăn nuôi và Thú y.

Các biện pháp phòng, chống dịch bệnh

Bệnh do EHP là bệnh ký sinh trùng nội bào, đến nay chưa có thuốc điều trị, sử dụng kháng sinh để phòng và trị bệnh không mang lại hiệu quả; việc lạm dụng kháng sinh làm cho tôm chậm lớn và gây ra hiện tượng kháng kháng sinh. Do đó, người nuôi cần thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh, như:

Xử lý ao sau mỗi vụ nuôi: Toàn bộ bùn đáy ao, chất thải trong quá trình nuôi phải được thu gom, đưa ra ngoài khu vực nuôi để phơi khô. Đáy ao đất sau mỗi vụ nuôi phải được phơi khô nứt chân chim (đối với ao không nhiễm phèn) trước khi thực hiện cải tạo đáy ao cho vụ nuôi tiếp theo. Đối với ao trải bạt, rửa sạch bằng nước ngọt, phơi khô và khử trùng bằng nước vôi hoặc hóa chất.

Cải tạo đáy ao: Sử dụng vôi bột (CaO) rắc đều một lớp dưới đáy ao, sau đó cho nước vào ngâm, duy trì pH khoảng 11 – 12 (để tiêu diệt EHP còn sót lại trong đáy ao) trong khoảng 5 ngày trước khi điều chỉnh lại pH ao nuôi cho phù hợp với hướng dẫn kỹ thuật nuôi tôm.

Xử lý nước ao nuôi: Các cơ sở thực hiện lấy nước qua hệ thống túi lọc để loại bỏ một số loài trung gian truyền bệnh cũng như ngăn chặn các loài thủy sản khác xâm nhập vào cơ sở. Nước trong ao xử lý/chứa lắng phải được khử trùng bằng Chlorine nồng độ từ 15 – 30 ppm hoặc bằng các hóa chất khác tương đương biện pháp phù hợp khác để diệt EHP và các tác nhân gây bệnh cũng như loại thủy sản khác.

Con giống: Chọn con giống khỏe mạnh, đã được kiểm dịch và có thực hiện xét nghiệm đảm bảo không nhiễm EHP cũng như các tác nhân gây bệnh nguy hiểm khác để thả nuôi.

Trong quá trình nuôi, không sử dụng thức ăn tươi sống không có nguồn gốc rõ ràng và phải được xét nghiệm bệnh do EHP trước khi sử dụng; đồng thời áp dụng các biện pháp an toàn sinh học để quản lý ao tôm như: hạn chế cho người lạ vào khu vực nuôi, thực hiện khử trùng dụng cụ ngay sau khi sử dụng; nguồn nước nuôi (thay mới hoặc bổ sung vào ao nuôi) phải được khử trùng; bờ ao phải được quây lưới chắn giáp xác và có biện pháp xua đuổi chim cò tự nhiên; cơ sở nuôi tuyệt đối không thực hiện san thưa tôm từ ao bệnh sang ao khác trong toàn bộ quá trình nuôi để tránh làm lây nhiễm bệnh từ ao này sang ao khác. 

Xây dựng và triển khai giám sát lưu hành bệnh tại cơ sở theo hướng dẫn tại Công văn số 431/TY-TS ngày 18/3/2019 của Cục Thú y (nay là Cục Chăn nuôi và Thú y).

Có lộ trình và kế hoạch tổ chức xây dựng cơ sở an toàn dịch bệnh theo quy định tại Thông tư số 24/2022/TT-BNNPTNT ngày 30/12/2022 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

Khi phát hiện tôm chết bất thường hoặc có biểu hiện chậm lớn khoảng 25 ngày sau thả nuôi, chủ cơ sở thực hiện khai báo với thú y cơ sở, cơ quan thú y của địa phương để được kiểm tra xác định nguyên nhân và hướng dẫn thực hiện các biện pháp xử lý theo quy định.

Xử lý ổ dịch phải đảm bảo: Toàn bộ dụng cụ, phương tiện chứa đựng, vận chuyển, bể nuôi,… phải được khử trùng bằng chất sát trùng và phương pháp phù hợp; nước trong ao bệnh phải được xử lý bằng Chlorine nồng độ 30 ppm, ngâm trong 7 ngày trước khi xả ra ngoài môi trường; các chất cặn bã, bùn đáy ao,… trong quá trình nuôi phải được thu gom và xử lý tại khu vực riêng.

Lê Loan

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!