(TSVN) – Nhân sâm Ấn Độ, tên khoa học là Withania somnifera (WS), sở hữu các thành phần hóa học độc đáo và một số chức năng có lợi cho sức khỏe của con người. Ngoài ra, WS không chỉ được sử dụng cho người mà còn có tác dụng đáng kể lên sinh trưởng và sức khỏe của một số loài thủy sản.
Mới đây, thêm một nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng của WS đối với thủy sản đã được công bố trên Tạp chí Fish & Shellfish Immunology (Volume 128, tháng 9/2022). Một nhóm nghiên cứu của Mohsen Abdel-Tawwab và cộng sự (Ai Cập) đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của các mức độ bổ sung lá nhân sâm Ấn Độ tách nước trong thức ăn lên hiệu suất tăng trưởng, hoạt động của các enzym tiêu hóa, hình thái mô ruột, các gen liên quan đến chống ôxy hóa, phản ứng miễn dịch và sức đề kháng của TTCT kháng lại vi khuẩn V. harveyi.
Cây nhân sâm Ấn Độ (Withania somnifera). Ảnh: ST
Lá của nhân sâm Ấn Độ (WSAE) được thu hái từ vùng Matrouh, Ai Cập, rửa sạch 2 lần bằng nước cất, phơi khô trong bóng râm, sau đó được nghiền bằng máy đến khi đạt được một kết cấu thô đồng nhất. Tiếp đến, 250 g bột lá WS được ngâm trong 24 giờ và sau đó đun sôi trong 10 phút trong 1.000 ml nước cất. Sau đó, nước được làm bay hơi và dư lượng WSAE được bổ sung vào khẩu phần thức ăn cơ bản đối chứng (40% protein thô; CP) ở các mức 0 (đối chứng), 0,5, 1 và 2 g/kg thức ăn. WSAE được hòa trong 100 ml nước và được thêm vào các thành phần của 1 kg thức ăn, được nghiền mịn, trộn đều bằng máy trộn trong 30 phút để đồng nhất và tạo viên (đường kính khoảng 2 mm). Các viên này được làm khô ở độ ẩm <10% và được bảo quản lạnh ở – 4oC cho đến khi sử dụng cho tôm. Phân tích thành phần hóa học của thức ăn cho được kết quả: 41,5% protein; 3,3% xơ thô; 12,7% tro; và năng lượng là 16,44 kJ/kg thức ăn.
TTCT có trọng lượng ban đầu trung bình là 0,34 ± 0,04 g được lấy từ một trại sản xuất tôm giống ở dự án Galion, Ai Cập. Trước khi bắt đầu thí nghiệm, tôm được nuôi thích nghi với môi trường là nước biển với độ mặn 23‰ trong 14 ngày. Trong thời gian này, tôm được cho ăn với khẩu phần đối chứng (40% CP). Tôm được phân bố ngẫu nhiên vào 15 bể nhựa (thể tích 1 m3/bể) với mật độ 300 con mỗi bể, trong đó mỗi nghiệm thức được đại diện bởi 3 bể (3 lần lặp). Tôm được cho ăn theo chế độ ăn thử nghiệm cho đến no vào lúc 8:00, 12:30, 16:00 và 20:00 trong 56 ngày. Cứ 2 ngày/lần, phân được làm sạch qua ống xiphong, và 50% lượng nước trong bể được thay bằng nước sạch mới. Chất lượng nước được theo dõi hàng ngày bằng cách đo các thông số sau: pH (7,8 – 8,2), độ mặn (22 – 23‰), nhiệt độ nước (28 – 31oC), tổng amoniac-nitơ (0,06 – 0,08 mg/l), và DO (6,5 – 6,8 mg/l). Các chỉ tiêu được đánh giá cho tôm trong nghiên cứu này bao gồm: Hiệu quả tăng trưởng; hoạt động của các enzym tiêu hóa; hình thái mô ruột; các gen liên quan đến chống ôxy hóa; phản ứng miễn dịch và sức đề kháng với vi khuẩn V. harveyi.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy, sau 56 ngày thử nghiệm, tôm được cho ăn WSAE có các thông số về tăng trưởng cao hơn so với đối chứng, kết quả tốt nhất được quan sát thấy ở nghiệm thức 2 g/kg thức ăn. Lượng tiêu thụ thức ăn của tôm ở các nghiệm thức được cho ăn WSAE là cao hơn nhiều so với tôm không cho ăn, tuy nhiên lại không có khác biệt về FCR (dao động trong khoảng 1,66 – 1,68). Tỷ lệ sống của tôm trong giai đoạn thí nghiệm dao động từ 95,6% đến 96,7%, không có sự khác biệt có ý nghĩa. So với nhóm đối chứng, TTCT được cho ăn bổ sung WSAE có chiều dài nhung mao, chiều rộng nhung mao và diện tích hấp thụ cao hơn đáng kể, đặc biệt ở nghiệm thức 2 g/kg thức ăn (Hình 1). Hơn nữa, TTCT được nuôi bằng chế độ ăn giàu WSAE tiêu thụ nhiều thức ăn hơn và thể hiện tổng hoạt động phân giải protein, lipase và α-amylase cao hơn so với nhóm đối chứng.
Hình 1. Những thay đổi về chiều dài/chiều rộng nhung mao (mm) và diện tích hấp thụ (mm2) trong ruột của TTCT được cho ăn ở các mức độ khác nhau của chiết xuất từ sâm Ấn Độ (WSWE) trong 56 ngày. Các thanh được gán bởi các chữ cái khác nhau có sự khác biệt đáng kể ở p <0,05.
So với lô đối chứng, hoạt động của các enzym nói trên của tôm ăn WSAE tăng dần (p <0,05) khi mức độ WSAE trong khẩu phần tăng lên đến mức 2 g/kg thức ăn (Bảng 1). Bên cạnh đó, mức độ biểu hiện mRNA của cMn-SOD, CAT và GPx trong mô gan tụy của TTCT đều được điều chỉnh theo tuyến tính và bậc hai (p <0,05) để đáp ứng với chế độ ăn bổ sung WSAE trong 56 ngày và biểu hiện tối đa của chúng mức độ được quan sát thấy trong nghiệm thức 2 g WSAE/kg thức ăn.
Bảng 1: Hoạt động của các enzym tiêu hóa (Unit/mg protein) trong mô giữa ruột của TTCT được nuôi ở các mức độ khác nhau của chiết xuất nhân sâm Ấn Độ (WSAE) trong 56 ngày
Nghiên cứu cũng cho thấy ở những cá thể tôm được cho ăn 0,5 g WSAE/kg thức ăn có tỷ lệ sống của chúng tăng lên đáng kể so với những con trong lô đối chứng. WSAE trong khẩu phần làm tăng đáng kể (p <0,05) tỷ lệ sống của TTCT, đặc biệt ở nghiệm thức 1 và 2 g/kg (tương ứng 61,3% và 66,7%) mà không có sự khác biệt có ý nghĩa (p> 0,05) giữa chúng.
Hình 2. Các phần mô học trong đường tiêu hóa của TTCT cho ăn chế độ ăn có bổ sung nước chiết xuất từ sâm Ấn Độ (WSAE) trong 56 ngày. Tấm A: 0,5 g/kg thức ăn; Tấm B: 1 g/kg thức ăn; Tấm C: 2 g/kg thức ăn; Đĩa D: chế độ ăn đối chứng.
Kết quả được đưa ra từ nghiên cứu này cho thấy rằng cho TTCT được cho ăn với chế độ ăn giàu WSAE đã cải thiện đáng kể các chỉ số tăng trưởng và lượng thức ăn ăn vào, đặc biệt ở nghiệm thức 2 g/kg thức ăn. Nghiên cứu cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể các hoạt động SOD, CAT và GPx cũng như mức GSH và TAC liên quan đến sự giảm đáng kể mức MDA ở tôm ăn WSAE (2 g/kg thức ăn). Ngoài ra, WSAE trong khẩu phần đã điều chỉnh đáng kể sự biểu hiện mRNA của các gen cMN-SOD, CAT và GPx. Những phát hiện này cho thấy rằng việc bổ sung WSAE trong khẩu phần đã cải thiện khả năng chống ôxy hóa của tôm và bảo vệ TTCT khỏi bị tổn thương do stress ôxy hóa. Cuối cùng, nghiên cứu cũng chứng minh rằng cho TTCT ăn với chế độ ăn giàu WSAE cho phép kiểm soát hiệu quả sự lây nhiễm V. harveyi. Điều này cho thấy hoạt tính kháng khuẩn của WSAE và tỷ lệ sống cao hơn của tôm được nuôi bằng WSAE sau khi tiếp xúc với V. harveyi gây bệnh có thể là kết quả của sự tương tác giữa các cơ chế bảo vệ miễn dịch bẩm sinh được tăng cường.
Xuân Lê
Theo Sciencedirect