(TSVN) – Ngày 2/12, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Trung tâm Khuyến nông Cà Mau tổ chức hội nghị tổng kết mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng hai giai đoạn ứng dụng công nghệ Grofarm. Mô hình không chỉ giúp người nuôi chủ động trước hạn hán, xâm nhập mặn, mà còn tăng năng suất, giảm chi phí, mở hướng đi bền vững cho vùng nuôi trọng điểm ĐBSCL.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, đặc biệt là tình trạng hạn hán kéo dài và xâm nhập mặn sâu vào nội đồng, ngành tôm vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đối mặt nhiều rủi ro về nguồn nước, dịch bệnh và chi phí sản xuất. Trước thực tế này, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp Công ty TNHH Grobest Industrial (Việt Nam) và Trung tâm Khuyến nông Cà Mau triển khai mô hình “Nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn thích ứng hạn hán, xâm nhập mặn” tại hai xã Cái Nước và Tân Tiến (tỉnh Cà Mau). Sau 5 tháng thực hiện, mô hình được đánh giá đem lại hiệu quả rõ rệt, phù hợp nhân rộng.
Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, mục tiêu của mô hình là chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đưa công nghệ Grofarm vào thực tiễn để nâng cao an toàn sinh học và hiệu quả nuôi. Nổi bật trong công nghệ này là việc sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm 36% nhưng hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) tương đương loại 40%. Công thức tối ưu giúp tôm hấp thụ dưỡng chất tốt hơn, hạn chế dư thừa, giảm phát sinh khí độc trong ao, đồng thời tiết kiệm chi phí thức ăn – yếu tố chiếm tỉ trọng lớn nhất trong giá thành nuôi.
Để ứng phó môi trường nước kém chất lượng trong mùa hạn mặn, mô hình áp dụng quy trình xử lý nước vào ao nuôi theo hai bước: hạ pH xuống dưới 7 trước, sau đó sử dụng chlorine để diệt khuẩn. Việc giảm pH giúp chlorine phát huy hoạt lực mạnh hơn, nhờ đó người nuôi dùng liều thấp mà vẫn loại bỏ hiệu quả các tác nhân gây bệnh nguy hiểm như đốm trắng (WSD) hay vi bào tử trùng (EHP). Cách làm này vừa giảm chi phí hóa chất, vừa bảo đảm an toàn môi trường ao nuôi.
Ảnh:TTKNQG
Quy trình nuôi được triển khai theo hai giai đoạn tách biệt. Giai đoạn 1 (ương giống) được thực hiện trong bể nổi lót bạt, có mái che, diện tích 100–300 m², mật độ cao 1.000 con/m². Nhờ không gian khép kín, người nuôi dễ dàng kiểm soát nhiệt độ, ôxy, độ mặn – những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sống của tôm giai đoạn nhạy cảm nhất trong 20–25 ngày đầu.
Sang giai đoạn 2 (nuôi thương phẩm), tôm được chuyển sang ao qua hệ thống ống sang chuyên dụng, hạn chế tối đa sốc môi trường và tổn thương. Mật độ duy trì 100 con/m². Nguồn nước cấp vào ao được lọc qua ao lắng và ao xử lý nhằm loại bỏ mầm bệnh trước khi đưa vào hệ thống nuôi.
Điểm đáng chú ý là mô hình ưu tiên sử dụng chế phẩm sinh học thay cho kháng sinh, giúp kiểm soát môi trường, nâng sức đề kháng tôm và hướng tới sản xuất an toàn, đáp ứng tiêu chuẩn thị trường xuất khẩu. Hệ thống quạt nước và ôxy đáy được vận hành liên tục để giữ ôxy hòa tan trên 5mg/l, hạn chế nguy cơ phát sinh khí độc.
Mô hình nuôi tôm công nghệ cao Grofarm Pro Tân Tây Đô (Cà Mau). Ảnh:TTKNQG
Sau 90–110 ngày nuôi, các hộ tham gia mô hình thu hoạch tôm đạt kích cỡ 40–42 con/kg, năng suất trên 15 tấn/ha. Nhờ áp dụng quy trình khoa học và quản lý thức ăn hiệu quả, mô hình mang lại lãi thuần khoảng 800 triệu đồng/ha, giảm 10–15% chi phí so với phương pháp truyền thống. Tỷ lệ sống cao, môi trường ổn định giúp người nuôi chủ động hơn trước các hiện tượng cực đoan như mưa lớn, ngập lụt hay thiếu nước vào mùa khô.
Theo đánh giá của các đơn vị thực hiện, thiết kế ao ương nổi và quy trình nuôi theo công nghệ Grofarm đã tạo ra mô hình sản xuất linh hoạt, thích ứng tốt với hạn mặn – thách thức lớn nhất hiện nay của vùng tôm Cà Mau nói riêng và ĐBSCL nói chung. Mô hình cũng cho thấy tiềm năng nhân rộng nhằm hướng đến ngành tôm bền vững, an toàn sinh học và nâng cao giá trị kinh tế cho người nuôi.
Hội nghị tổng kết thống nhất tiếp tục hoàn thiện quy trình, đồng thời dự kiến mở rộng mô hình ở những địa bàn chịu ảnh hưởng mạnh bởi biến đổi khí hậu, góp phần xây dựng nền nông nghiệp chủ động, hiện đại và thích ứng.
Thùy Khánh