(TSVN) – Rừng ngập mặn tỉnh Cà Mau rộng trên 60.000 ha (gồm rừng đặc dụng, phòng hộ, sản xuất) có hệ thực vật và động vật phong phú là tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững. Tỉnh chủ trương phát triển mấy năm nay đã đạt kết quả đáng phấn khởi, tuy nhiên, cũng còn nhiều thách thức cần giải quyết như báo cáo “Hiện trạng và định hướng phát triển NTTS bền vững, gắn với bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn” của Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Cà Mau Nguyễn Văn Trung.
Rừng ngập mặn tỉnh Cà Mau có 101 loài cây, trong đó, 32 loài cây chính thức thuộc 27 họ mà đước chiếm đa số và có giá trị kinh tế cao. Đây cũng là môi trường sống, sinh sản tự nhiên của nhiều loài thủy sản, đặc biệt là các loại tôm, cua, cá, nhuyễn thể. Nuôi thủy sản dưới tán rừng gắn với bảo vệ rừng và trồng rừng ngập mặn đang được xem là biện pháp hấp thu carbon, giảm phát thải nhà kính, phù hợp với xu thế phát triển xanh.
Cà Mau xác định nuôi thủy sản dưới tán rừng là mô hình bền vững để phát triển kinh tế nên đã phối hợp với các tổ chức quốc tế triển khai nhiều dự án. Kết quả góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các hộ nhận khoán trên lâm phần. Diện tích tập trung ở các huyện Ngọc Hiển, Năm Căn, Đầm Dơi và Phú Tân với tổng cộng 25.922 ha. Trong đó, Ngọc Hiển 8.105 ha, Năm Căn 8.101 ha, Đầm Dơi 5.166 ha, Phú Tân 4.550 ha.
Nuôi tôm dưới tán rừng liên kết với Tập đoàn Minh Phú
Hình thức chủ yếu là nuôi tôm kết hợp với cua, cá, sò huyết, ốc len, vọp,… quảng canh. Các hộ nhận khoán phải đảm bảo ít nhất 70% diện tích có rừng, 30% diện tích được phép nuôi thủy sản. Rừng phải trồng từ 20 năm trở lên mới được phép khai thác.
Nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản như Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, Công ty Cổ phần Camimex Group Cà Mau, Công ty Cổ phần Chế biến và Dịch vụ thủy sản Cà Mau, Công ty Cổ phần XNK Thủy sản Năm Căn đã liên kết với các Ban Quản lý rừng và các hộ nuôi tôm đạt các chứng nhận quốc tế. Có 9 loại chứng nhận theo các tiêu chuẩn quốc tế đã đạt được là ASC, B.A.P, EU Organic, Canada Organic, Bio Suisse, Selva Shrimp, Mangrove Shrimp, Naturland, Seafood Watch. Trong đó, có nhiều loại chứng nhận khác nhau trên cùng diện tích, nên tổng diện tích của các loại chứng nhận là hơn 55.500 ha.
Sản phẩm tôm – rừng có chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế được doanh nghiệp chế biến xuất khẩu mua với giá cao hơn 5 – 10% so với sản phẩm truyền thống. Doanh nghiệp liên kết còn hỗ trợ chi trả dịch vụ môi trường rừng từ 250.000 – 500.000 ha/năm và hỗ trợ về con giống có chất lượng để thả nuôi.
Tuy nhiên, năng suất nuôi thủy sản dưới tán rừng còn khá thấp, do vấn đề ô nhiễm, bạc màu xảy ra nhiều năm nhưng người dân chưa thực hiện các giải pháp xử lý hiệu quả. Nhiều người dân chưa áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, chỉ nuôi theo tập quán, rất ít hộ sử dụng chế phẩm sinh học để cải tạo đất, cải thiện môi trường, gây nguồn thức ăn tự nhiên.
Năng suất trên ha/năm với tôm chỉ đạt 100 – 120 kg, cua 50 – 80 kg, sò huyết 100 – 150 kg, cá các loại 50 kg. Tính ra mới cho thu nhập 30 – 40 triệu đồng/ha/năm.
Các thách thức hiện nay: Hạ tầng vùng nuôi chưa đáp ứng, nhất là hệ thống đê bao chống tràn lúc triều cường để hạn chế thiệt hại. Nhiều người dân chưa quan tâm ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến quy trình nuôi để nâng cao năng suất và hiệu quả. Tổ chức sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh xảy ra thường xuyên.
Mô hình nuôi sò huyết dưới tán rừng
Cà Mau đặt mục tiêu đến năm 2025: Diện tích nuôi thủy sản dưới tán rừng 26.000 ha; có 30.000 ha tôm – rừng, tôm – lúa được chứng nhận các tiêu chuẩn hữu cơ, sinh thái và tiêu chuẩn quốc tế; năng suất thủy sản 350 – 400 kg/ha/năm. Đến năm 2030: Diện tích nuôi thủy sản dưới tán rừng 28.000 ha; có 50.000 ha tôm – rừng, tôm – lúa được chứng nhận các tiêu chuẩn hữu cơ, sinh thái và tiêu chuẩn quốc tế; năng suất thủy sản 400 – 450 kg/ha/năm.
Giải pháp phát triển bền vững là nuôi tôm chỉ chiếm 30-40% diện tích mặt nước, và phải đảm bảo ít nhất 50 – 60% tỷ lệ rừng. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng vùng nuôi, nhất là hệ thống đê chống tràn do nước biển dâng. Hình thành các vùng nuôi tập trung quy mô lớn áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Vận động người dân ứng dụng khoa học kỹ thuật.
Đồng thời, tăng cường công tác quan trắc môi trường, giám sát dịch bệnh trong nuôi thủy sản tại vùng rừng ngập mặn. Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất, nhất là cải tiến quy trình nuôi, chọn giống và các loại phân vi sinh, chế phẩm sinh học có chất lượng tốt để sử dụng.
Hỗ trợ xây dựng thương hiệu, thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Nghiên cứu phát triển nuôi thủy sản theo hướng đa dạng hoá đối tượng và phương thức; hoàn thiện kỹ thuật các hình thức nuôi kết hợp, nuôi xen canh, nuôi luân canh đem lại giá trị kinh tế cao và bền vững.
Sáu Nghệ