(TSVN) – Những năm gần đây, kỹ thuật nuôi lươn thương phẩm không ngừng cải tiến, giúp giảm giá thành sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế.
Vị trí xây dựng bể nuôi lươn phải yên tĩnh, ít người qua lại, có bóng mát; nơi có nguồn nước phong phú, thuận tiện, chất lượng nước tốt. Diện tích một bể nuôi từ 10 – 20 m2 là thích hợp, độ sâu 0,7 – 1 m. Bể lót bạt hoặc bể xi măng đều được, tuy nhiên, yêu cầu bể phải thiết kế để đảm bảo nguyên tắc không cho lươn bò ra ngoài, dễ dàng thu hoạch, thuận tiện trong việc lấy nước và tháo nước.
Để tránh sự cạnh tranh thức ăn và sự phân đàn quá lớn, trong 1 bể diện tích 10 m2, nên bố trí từ 3 – 4 hệ thống sạp tre nhỏ thay vì 1 hệ thống sạp tre lớn. Trường hợp với bể có diện tích 20 m2 có thể được ngăn ra thành nhiều bể nhỏ hoặc xây hệ thống bể với nhiều bể khác nhau để thuận lợi cho việc phân cỡ và chăm sóc.
Đặc biệt, với hình thức nuôi truyền thống thường sử dụng thực vật thủy sinh che mát cho lươn, biện pháp này vẫn chưa mang lại hiệu quả chống nắng tốt nhất. Do đó, điểm cải tiến ở mô hình này là xây dựng mái che và rào lưới xung quanh bể nuôi để cho bể chống nóng trong mùa nắng và ngăn ngừa địch hại xâm nhập.
Chọn nguồn lươn giống sinh sản nhân tạo có kích cỡ đồng đều, màu sắc tươi sáng, vận động linh hoạt; không xây xát, thương tổn, mất nhớt. Những con lươn có màu nhợt nhạt, có màu vàng xanh hoặc xám tro thì yếu và khó nuôi, tăng trưởng chậm.
Kích cỡ giống từ 50 – 60 con/kg. Mật độ thả nuôi dao động từ 50 – 80 con/m2, thích hợp nhất là 60 con/m2.
Trước khi thả lươn giống vào bể nuôi, tắm qua dung dịch nước muối nồng độ 2 – 3% khoảng 1 – 2 phút. Cần kiểm tra kỹ, nếu phát hiện những con bị bệnh hay yếu, lờ đờ, xây xát thì phải loại ra.
Thức ăn cho lươn là cá tạp xay nhuyễn kết hợp với bột bắp được phối trộn theo tỷ lệ 80:20 (bột bắp phải được hấp chín). Bổ sung tỏi đã xay nhuyễn vào khẩu phần ăn để hạn chế các bệnh đường ruột. Định kỳ bổ sung thêm men tiêu hóa, Vitamin C, sổ giun sán vào thức ăn để tăng sức đề kháng và phòng bệnh cho lươn. Đặc tính của lươn là ăn vào ban đêm, do đó, ban đêm cho lươn ăn lượng thức ăn khoảng 80%, còn 20% cho ăn vào ban ngày.
Xây dựng bể nuôi cá trê để nhằm tận dụng nguồn thức ăn dư thừa của lươn. Nước trong bể nuôi lươn thải ra sẽ được chuyển vào bể nuôi cá trê, cá trê sẽ dùng thức ăn thừa của lươn để làm thức ăn. Điều này không những hạn chế được việc lãng phí thức ăn dư thừa mà còn tránh được tình trạng ô nhiễm môi trường do nước nuôi lươn thải ra.
Trong quá trình nuôi cần thường xuyên phân cỡ lươn để tránh sự phân đàn. Cách làm như sau: Dùng ống nước bằng nhựa PVC đường kính 90 cm cắt dọc theo chiều dài của ống, cho thức ăn vào rồi bịt kín 2 đầu ống. Những con lươn nhỏ sẽ vào ăn thì tiến hành bắt để bỏ vào bể khác. Cứ 3 ngày thì cắt rộng thêm để bắt những con lớn hơn. Ưu điểm của phương pháp này là hạn chế việc lươn bị stress khi phân cỡ lươn.
Mực nước trung bình trong bể nuôi từ 20 – 30 cm, tăng lên 40 cm khi lươn lớn hơn. Thay nước 1 lần/ngày sau khi cho lươn ăn xong, lượng nước thay tối đa 70 – 80% lượng nước nuôi. Nhiệt độ nước mới và nước cũ không chênh lệch quá 3°C. Khi thay nước phải kết hợp xịt rửa vệ sinh và quan sát thấy lươn có dấu hiệu bệnh nên bắt và tách riêng lươn bệnh ra thau hoặc thùng để điều trị tránh bị lây lan mầm bệnh. Sau đó bơm nước mới vào và duy trì mực nước cố định.
Nguyễn Hằng