Chất lượng môi trường nước biển chịu tác động mạnh từ các nguồn thải

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Ngày 11/8, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã ký Văn bản số 4944/BTNMT-TCBHĐVN, công bố Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia giai đoạn 2016 – 2020. Đây là báo cáo đầu tiên về hiện trạng môi trường biển quốc gia, được xây dựng sau khi Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 có hiệu lực thi hành.

Báo cáo gồm 6 chương với các nội dung chính: Tổng quan về biển và hải đảo Việt Nam; Áp lực của phát triển kinh tế – xã hội đối với môi trường biển và hải đảo; Hiện trạng môi trường biển và hải đảo; Tác động ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; Quản lý môi trường biển, liên quan đến quản lý Nhà nước về biển và hải đảo; Các cơ hội, thách thức và giải pháp bảo vệ môi trường biển và hải đảo.

Về vấn đề chất lượng môi trường nước biển, báo cáo cũng chỉ rõ, dưới áp lực phát triển kinh tế – xã hội, môi trường biển và hải đảo chịu tác động lớn. Chất lượng môi trường nước biển chịu tác động mạnh của hoạt động phát triển kinh tế – xã hội  khu vực ven bờ.

Cho đến nay, chưa có nhiều nghiên cứu, đánh giá toàn diện về thải lượng các chất ô nhiễm trực tiếp xả ra môi trường biển, phần lớn các nghiên cứu tập trung phân tích, tính toán thải lượng của một ngành nghề hoặc một hoạt động phát thải ra vùng biển. Do hạn chế về nguồn số liệu, báo cáo phân tích nguồn thải về quy mô tác động, mức độ ảnh hưởng, thành phần chất thải phát sinh. Các nguồn thải chính được đề cập trong báo cáo gồm nguồn thải từ hoạt động dân cư (sinh hoạt, kinh doanh dịch vụ nhỏ lẻ); nguồn thải từ hoạt động công nghiệp; nguồn thải từ hàng hải trên biển; nuôi trồng thủy hải sản trên biển; khai thác, thăm dò dầu khí trên biển.

Báo cáo chỉ ra rằng, phần lớn các chất thải từ đất liền tác động gián tiếp đến môi trường nước biển và hải đảo, theo các dòng chảy sông ra biển, mức độ gia tăng tại các cửa sông chảy qua hoặc gần các thành phố biển dẫn đến môi trường biển nhiều nơi đang có xu hướng suy giảm về chất lượng. Nhiều vùng cửa sông ven biển đã bị ô nhiễm do nước thải công nghiệp, đô thị. Tình trạng xả thải các chất thải chưa qua xử lý hay xử lý chưa đạt quy chuẩn diễn biến ngày càng phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế, đời sống, sinh kế của cộng động dân cư ven biển và những tổn hại khó lường đối với các hệ sinh thái, sinh vật biển. 

Kết quả thống kê cho thấy, 74% lượng chất thải rắn của các địa phương có biển đã được thu gom (năm 2019); lượng nước thải sinh hoạt đô thị phát sinh khoảng 122 -163 triệu m3/ngày. Có đến 70% các khu, điểm du lịch trong cả nước tập trung khu vực ven biển, kéo theo đó là sự phát triển các dịch vụ du lịch biển, hệ quả không chỉ gây áp lực lên hạ tầng đô thị (hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý chất thải) mà còn tác động đến không gian của các đô thị ven biển. Tác động rõ nhất có thể nhận thấy là sự thay đổi cảnh quan ven biển, điển hình như các dự án lấn biển làm khu nghỉ dưỡng tại các khu ven biển thời gian qua.

Báo cáo cũng xác định rõ các nguồn thải trên biển. Theo đó, nguồn thải từ hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản và hoạt động từ du lịch biển là nguồn thải có mức độ tác động lớn nhất và là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trưởng cục bộ tại một số vịnh, đầm phá ven biển Việt Nam. Bên cạnh đó, sự gia tăng chất thải nhựa đại đương trong những năm gần đây là vấn đề lớn, mang tính toàn cầu và cũng đang gây áp lực không nhỏ trong công tác quản lý chất thải trên biển ở nước ta.

Việc xảy ra một số sự cố môi trường do xả thải chất thải công nghiệp, tràn dầu, ô nhiễm môi trường biển để lại hậu quả nặng nề làm gia tăng ô nhiễm đối với môi trường, hệ sinh thái biển, tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế biển như du lịch, đánh bắt và NTTS, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của người dân.

Tình trạng ô nhiễm chất hữu cơ và dầu mỡ đã và đang diễn ra ở các tỉnh thành ven biển, đặc biệt là vùng cửa sông các tỉnh phía Bắc và dọc dải ven biển ĐBSCL. Ô nhiễm hữu cơ tuy chỉ có tính cục bộ nhưng khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, đông dân trải dài từ Bắc vào Nam…

Cùng với đó, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang ngày càng gia tăng, gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường biển. Đặc biệt, nước biển dâng trong bão kèm theo sóng lớn có thể gây thiệt hại nghiêm trọng do mức nước dâng cao bất ngờ, gây ngập lụt khu vực ven biển.

Các hệ sinh thái biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững, dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học. Đến nay, đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ bị đe dọa và quý hiếm được dưa vào Sách đỏ Việt Nam và Danh mục đỏ IUCN (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên thế giới) để yêu cầu phải có biện pháp bảo vệ.

>> Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia giai đoạn 2016 -2020 được xác định là một nguồn tài liệu quan trọng, nguồn thông tin dữ liệu hữu ích, hỗ trợ tích cực, kịp thời, thiết thực đối với công tác tác quản lý, hoạch định, xây dựng và thực hiện chính sách về công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo Việt Nam trong tình hình mới, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển theo Nghị quyết số 36-NQ/TW và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

An An

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!