Chiến lược phát triển bền vững ngành nông nghiệp

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Chiến lược) đã được Chính phủ chính thức phê duyệt. Với mục tiêu chung là xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa đồng thời phát triển nông nghiệp dựa trên lợi thế địa phương, theo hướng hiện đại có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bền vững và sức cạnh tranh cao thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực và trên thế giới.

Kế thừa, phát huy thành tựu đã đạt được

Bộ NN&PTNT cho biết, 2022 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với toàn ngành, là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2021 – 2030) và Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2021 – 2025). Do đó, toàn ngành tập trung thực hiện quyết liệt cơ cấu lại theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới nhằm hướng tới xây dựng nền “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”. Năm 2022, toàn ngành phấn đấu tốc độ tăng trưởng đạt từ 2,8 – 2,9%; tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản 2,9 – 3%; tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản khoảng 49 tỷ USD. Bên cạnh đó, tỷ lệ số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới trên 73%. Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh 92,5%; tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42% và nâng cao chất lượng rừng.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã yêu cầu toàn ngành nông nghiệp phải đổi mới tư duy mạnh mẽ hơn nữa; nâng cao tầm dự báo chiến lược; tổ chức thực hiện, giải quyết các vấn đề mang tính thiết thực, hiệu quả và mang lại giá trị gia tăng cao hơn. Thủ tướng đề nghị, cần đặt ra mục tiêu cao hơn cho ngành trong năm 2022, đó là tăng trưởng từ 3% trở lên, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt hơn 50 tỷ USD. Cùng đó, đề nghị rà soát kỹ, tiếp tục hoàn thiện thể chế để phát triển nông nghiệp bền vững, phát triển theo chiều sâu, dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, dựa vào chuyển đổi số. Cần đa dạng hóa thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm. Thúc đẩy xây dựng nhiều sản phẩm quốc gia, quốc tế, sản phẩm của vùng.

Theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan, Chiến lược vừa mang tính kế thừa những thành tựu đã đạt được trong nhiều nhiệm kỳ qua vừa tổng hợp những quan điểm tiếp cận mới, tư tưởng mới, xu thế mới, giá trị mới phù hợp với bối cảnh mới xoay quanh 3 trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái – Nông thôn hiện đại – Nông dân thông minh”. Ba trụ cột này hướng đến mục tiêu xây dựng nông nghiệp Việt Nam trở thành nhà sản xuất và cung cấp lương thực, thực phẩm “minh bạch – trách nhiệm – bền vững” mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định với cộng đồng quốc tế. Chiến lược mang tư duy phát triển nông nghiệp chuyển từ sản xuất sang kinh tế; từ chú trọng về năng suất, sản lượng sang tích hợp đa giá trị; từ tận dụng, khai thác sang sử dụng hợp lý, nuôi dưỡng làm giàu tài nguyên phục vụ nhu cầu bền vững; từ ngắn hạn sang cục bộ trong dài hạn; kết nối liên vùng liên khu vực; từ cung ứng những mặt hàng có thể sản xuất sang đáp ứng đa dạng nhu cầu theo chuỗi giá trị hòa nhập với xu thế phát triển của toàn cầu.

Định hướng, nhiệm vụ trên từng lĩnh vực

Đối với trồng trọt, đổi mới cơ cấu cây trồng và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất nông nghiệp một cách linh hoạt hơn nhằm phát huy lợi thế là ngành sản xuất chiến lược đảm bảo nhu cầu trong nước và phục vụ xuất khẩu. Ưu tiên phát triển các cây trồng có lợi thế so sánh và nhu cầu lớn (cây công nghiệp, cây ăn quả nhiệt đới, lúa gạo chất lượng cao…). Có bước đi phù hợp để thúc đẩy phát triển các cây trồng mới có triển vọng như cây dược liệu, cây cảnh, nấm ăn…

Đối với sản xuất lúa gạo, tiếp tục phát huy lợi thế ngành lúa gạo Việt Nam nhưng với những đổi mới về tư duy, chính sách quản lý, sử dụng đất trồng lúa và sản xuất lúa gạo – từ tập trung phát triển về sản lượng sang coi trọng chất lượng, vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, vừa khai thác, sử dụng tài nguyên đất, nước một cách hiệu quả cao nhất.

Đối với chăn nuôi, đảm bảo các nhu cầu thiết yếu về thực phẩm cho thị trường trong nước; phát triển các ngành hàng có tiềm năng và thị trường như thịt gia cầm, trứng, sữa; duy trì chăn nuôi lợn và gia súc lớn. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, vật nuôi bản địa, đặc sản có giá trị cao, đảm bảo an toàn thực phẩm, bền vững môi trường, an toàn sinh học, vả dịch bệnh. Phát triển chăn nuôi công nghiệp áp dụng công nghệ cao tại các trang trại và doanh nghiệp lớn, đồng thời, khuyến khích chăn nuôi hộ truyền thống có cải tiến theo hướng chuyên nghiệp hóa, chăn nuôi hữu cơ. Xây dựng các vùng chăn nuôi tập trung xa nơi dân cư tập trung, thuận lợi cho xử lý môi trường và phòng tránh dịch bệnh.

Đối với thủy sản, Chiến lược nhấn mạnh mục tiêu phát triển ngành thủy sản thành ngành sản xuất chiến lược, đảm bảo nhu cầu trong nước và phục vụ xuất khẩu. Trong đó, phát triển ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng nuôi tập trung công nghiệp, công nghệ hiện đại với các cơ sở sản xuất quy mô lớn và đối với hộ quy mô nhỏ thì áp dụng công nghệ cải tiến, nuôi hữu cơ, phối hợp nuôi lồng bè, ao hồ tập trung và luân canh/xen canh… ưu tiên phát triển vùng nuôi chuyên canh chính cho các sản phẩm chiến lược như tôm, cá tra; hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi phục vụ thủy sản tại các vùng nuôi chuyên canh…

>> Mục tiêu cụ thể của Chiến lược đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng GDP nông, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 2,5 - 3%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động nông, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 5,5 - 6%/năm; mở rộng và phát triển thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu. Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt bình quân từ 5 - 6%/năm.

An Chi

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!