(TSVN) – Theo kết quả từ nghiên cứu mới, việc bổ sung chiết xuất từ quả nhàu vào thức ăn tôm có thể tăng cường sức đề kháng của tôm thẻ chân trắng (TTCT) trước các áp lực môi trường.
Những năm qua, nghề nuôi tôm đã có đóng góp lớn cho nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, ồ ạt của ngành hàng này thì tình hình dịch bệnh trên tôm cũng diễn biến ngày càng phức tạp, có thêm nhiều bệnh mới với đa dạng chủng loài vi khuẩn, virus.
Dich bệnh tăng cao, tình trạng sử dụng kháng sinh ngày càng tràn lan đã làm xuất hiện hiện tượng kháng thuốc, khiến cho việc kiểm soát dịch bệnh trở nên khó khăn. Chính vì thế, xu hướng sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật làm chất kích thích miễn dịch ngày càng gia tăng bởi phương pháp này vừa có thể thay thế thuốc hoặc thuốc kháng sinh vừa hiệu quả hơn về chi phí và thân thiện với môi trường. Các nghiên cứu trước đây cho biết chiết xuất thực vật cải thiện khả năng miễn dịch của một số loài thủy sản nuôi. Sự cải thiện tăng trưởng và khả năng miễn dịch của thủy sản là kết quả của việc tăng cường hoạt động của các enzym tiêu hóa và enzyme chống ôxy hóa của các chiết xuất này.
Quả nhàu có đặc tính kháng khuẩn, kháng nấm, chống ôxy hóa và chống viêm. Ảnh: ST
Trái nhàu (Morinda citrifolia) là một loại cây thường mọc ở Đông Nam Á được sử dụng trong y học cổ truyền để điều trị bệnh tiểu đường, viêm khớp, tăng huyết áp, đau đầu và sốt… Thành phần của quả nhàu rất giàu protein, vitamin, khoáng chất, coenzym, carbohydrate và alkaloid. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng M. citrifolia sở hữu nhiều đặc tính dược lý, chẳng hạn như đặc tính kháng khuẩn, kháng nấm, chống ôxy hóa và chống viêm (DeiviArunachalam và cộng sự, 2021). Trong khi nghiên cứu về lợi ích của cây nhàu trên tôm vẫn còn hạn chế, loài cây này đã được báo cáo là đã cải thiện sự phát triển của gia súc, gà, cũng như kích thích các phản ứng miễn dịch của tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii).
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về trái nhàu chứng minh hiệu quả ở TTCT. Điển hình như theo kết quả nghiên cứu của Julia Hwei ZhongMoh và cộng sự (2021) cho thấy, bổ sung chất chiết xuất từ trái nhàu cho TTCT giúp cải thiện hiệu suất tăng trưởng của tôm về trọng lượng cơ thể, tổng chiều dài, tăng trưởng trung bình hàng ngày và hệ số chuyển đổi thức ăn.
Nghiên cứu dưới đây của Phan Thị Cẩm Tú và cộng sự (2023) đã được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng khi bổ sung chiết xuất trái nhàu đến hiệu suất tăng trưởng và khả năng miễn dịch của TTCT.
Quả nhàu được rửa sạch và cắt cẩn thận thành từng miếng nhỏ. Sau khi phơi khô trong 2 tuần, quả nhàu được nghiền thành dạng bột với số lượng yêu cầu. Chiết xuất quả nhàu bằng metanol 70% với tỷ lệ 1:5 ở nhiệt độ phòng. Sau khi khuấy liên tục trong 48 giờ, dịch chiết được lọc bằng giấy lọc định tính. Chất lỏng sau đó được cô đặc bằng phương pháp bay hơi ở nhiệt độ 50oC và áp suất trong khoảng từ 90 – 300 mBar. Dịch chiết được chuyển vào lọ thủy tinh và bảo quản trong tủ lạnh ở 4oC.
Thức ăn tôm thương mại không có chiết xuất từ quả nhàu được sử dụng làm nghiệm thức đối chứng. Các chất chiết xuất được đưa vào thức ăn viên tôm có chứa nồng độ khác nhau là 0% (T0), 0,5% (T1), 1% (T2) và 1,5% (T3) trong khoảng thời gian 56 ngày.
Sau đó, nhóm tác giả đã thực hiện thử nghiệm đánh giá hoạt động của enzyme tiêu hóa, thí nghiệm stress mặn, thí nghiệm stress ammoniac.
TTCT khỏe mạnh thu được từ trại giống thương mại và nuôi thích nghi trong 1 tuần trong bể hỗn hợp (5 m3) trước khi bắt đầu thí nghiệm. Sau khi thích nghi, 1.200 con tôm thí nghiệm (0,5 ± 0,07 g) được chọn ngẫu nhiên và chuyển sang 12 bể (dung tích 500 L) trong 4 hệ thống nuôi tuần hoàn. Mỗi nhóm thử nghiệm có ba lần lặp lại, mỗi lần gồm 100 con tôm.
Tôm được cho ăn 4 lần (6h, 12h, 17h và 20h) hàng ngày với tỷ lệ 3 – 5% trọng lượng cơ thể. Thức ăn thừa được thu thập 1 giờ sau khi cho ăn và sấy khô ở 80oC. Trong quá trình thử nghiệm, các thông số chất lượng nước được duy trì trong phạm vi phù hợp cho sự phát triển của tôm.
Tôm được cho ăn chế độ ăn bổ sung 1% chiết xuất quả nhàu (T2) và 2% chiết xuất quả nhàu (T3) cho thấy các chỉ số tăng trưởng được cải thiện đáng kể (WG, DWG và SGR); tuy nhiên, không thấy sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm cuối cùng (đối chứng và bổ sung 0,5% chiết xuất quả nhàu T1). Về tỷ lệ sống các nhóm T1, T2 và T3 cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng. Việc áp dụng chiết xuất quả nhàu vào chế độ ăn của tôm làm giảm đáng kể tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) của TTCT, với giá trị thấp nhất (1,26 ± 0,73) được ghi nhận ở nhóm T3.
Tỷ lệ sống của ba nhóm thử nghiệm cao hơn nhóm đối chứng (T0) sau 24 giờ tiếp xúc với độ mặn thấp; tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát giữa nhóm T1 và T2 hoặc giữa nhóm T2 và T3. Kết quả tương tự cũng được quan sát thấy khi phơi nhiễm trong 96 giờ. Sau khi trải qua stress khi tiếp xúc với amoniac trong 24, 72 và 96 giờ, tỷ lệ sống của nhóm T0 tại các thời điểm này thấp hơn so với nhóm T2 và T3. Tuy nhiên, không thấy sự khác biệt đáng kể giữa nhóm T0 và T1.
Việc bổ sung các chất chiết xuất từ thực vật là một giải pháp đầy hứa hẹn và đem lại nhiều lợi ích cho tôm. Dựa trên những phát hiện này, nồng độ chiết xuất quả nhàu được khuyến nghị cho sự phát triển của tôm nằm trong khoảng từ 1 đến 1,5%.
Nguyễn Hằng