Chuẩn hóa nghề cá: Bước đi không thể chậm trễ

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Trong bối cảnh thị trường thủy sản thế giới ngày càng đặt ra nhiều tiêu chuẩn khắt khe trong nhập khẩu hàng hóa, để không bị loại khỏi “cuộc chơi”, ngành thủy sản Việt Nam buộc phải tuân thủ mọi quy tắc của thị trường. Chính vì thế việc chuẩn hóa nghề cá đang và sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc.

Để có góc nhìn rõ hơn về vấn đề này, Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn với Tiến sĩ Phạm Anh Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Thủy sản Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư – Bộ Nông nghiệp và Môi trường), xung quanh nội dung chuẩn hóa trong nuôi trồng và khai thác thủy sản.

Hướng tới phát triển bền vững

Phóng viên: Hiện nay, thị trường thủy sản thế giới ngày càng có nhiều quy định nghiêm ngặt về các sản phẩm nhập khẩu, để giữ vững vị thế trong xuất khẩu, ngành thủy sản Việt Nam buộc phải có sự chấn chỉnh. Theo ông, những yếu tố quốc tế nào đang tạo áp lực buộc ngành thủy sản Việt Nam phải “chuẩn hóa”?

TS. Phạm Anh Tuấn: Đối với thủy sản thế giới, khi muốn xuất khẩu sang thị trường nào thì đầu tiên là phải tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng tại thị trường đó. Ví dụ như quy định về chất cấm, kháng sinh, các chất không được dùng, các ngưỡng giới hạn không được vượt quá, đó là tiêu chuẩn đầu tiên. Ngoài ra còn rất nhiều các quy định, các yêu cầu khác. Ví dụ như đối với thị trường EU là vấn đề về chống đánh bắt bất hợp pháp, đối với Hoa Kỳ là các quy định về vấn đề bảo vệ động vật có vú biển.

Một điểm nữa là các quy định về vấn đề chống bán phá giá, châu Âu còn có các quy định về vấn đề trợ cấp cho nghề cá. Ngoài những điều đó thì gần đây người ta còn đòi hỏi vấn đề an sinh động vật, yêu cầu này sẽ càng rõ hơn và ngày càng khắt khe hơn. Rồi vấn đề bảo vệ môi trường, vấn đề đối xử với người lao động, lương tối thiểu của người lao động… Hay mới đây các thị trường bắt đầu đặt ra những vấn đề về mức phát thải của sản phẩm sản xuất, nuôi trồng thủy sản và sự thay đổi sử dụng đất, rừng…

Các quy định này nhìn chung đều hướng đến hai mục tiêu. Một là chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường phải đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Thứ hai là bảo vệ môi trường và những người liên quan trong quá trình sản xuất.

Phóng viên: Vậy theo ông việc chuẩn hóa nghề cá nếu thực hiện được sẽ giúp gì với xuất khẩu thủy sản cũng như hoạt động ngư dân?

TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi nghĩ, vấn đề chuẩn hóa trong ngành thủy sản kể cả khai thác và nuôi trồng là tuân thủ các quy định và đáp ứng được các chứng nhận bền vững của các tổ chức cũng như thị trường thì đầu tiên là tốt cho chính mình. Bởi tất cả những điều đó sẽ thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành. Như nhấn mạnh của Thủ tướng Chính phủ trong cuộc họp với Ban Chỉ đạo IUU mới đây là “phải xác định rõ ràng làm cho mình chứ không phải làm chống đối với thị trường”.

Vì khi đạt được các chứng nhận tức là không chỉ sản xuất an toàn hơn, mà còn phải chú ý vấn đề bảo vệ môi trường, phải quan tâm đến các phúc lợi xã hội của người lao động… Về khía cạnh nội tại, làm tốt để ngành phát triển bền vững, nhưng đồng thời cũng giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu.

Phải tuân theo nguyên tắc thị trường

Phóng viên: Theo ông, để đạt được sự chuẩn hóa đúng nghĩa, trong nuôi trồng thủy sản, các tiêu chuẩn quốc tế (ví dụ như ASC, BAP, Global GAP) đòi hỏi những quy trình sản xuất, an toàn sinh học, truy xuất nguồn gốc gì mà các hộ nuôi cần đáp ứng?

TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi thì sự chuẩn hóa gồm những quy định và tiêu chuẩn. Trong đó, quy định là phải tuân thủ. Ví dụ như họ yêu cầu không được dùng chất cấm này hoặc chất này chỉ cho phép ở một mức giới hạn nhất định thì ta sẽ phải theo. Còn những cái mà chúng ta thường gọi là tiêu chuẩn, hay còn gọi là chứng nhận như ASC, BAP, GlobalGAP, thì đấy là các tiêu chuẩn thực hành nuôi trồng thủy sản tốt. Và chứng nhận sẽ là tự nguyện.

Tự nguyện nghĩa là ta có thể theo hoặc không. Đó là về nguyên tắc. Tuy nhiên, mặc dù gọi là tự nguyện nhưng người ta lại biến thành công cụ thị trường. Tức là nếu như anh không đạt được những chứng nhận đó, thì các nhà nhập khẩu không mua hàng. Hoặc là người tiêu dùng người ta ý thức hơn, ngoài chuyện mua sản phẩm an toàn cho tiêu dùng, họ còn muốn những sản phẩm đó phải được chứng nhận. Ví dụ như Walmart, hoặc một nhà nhập khẩu nào đó, họ chỉ mua hàng đạt được những chứng nhận cụ thể thì rõ ràng chúng ta phải theo chứng nhận đó. Thế nên gọi là tự nguyện nhưng thật ra nó lại trở thành điều kiện phải có để bán được hàng.

Nói chung, nếu như các quy định về mặt chất lượng chúng ta phải tuân thủ, nhưng về mặt tiêu chuẩn thì phải có sự lựa chọn cho phù hợp với người mua, với thị trường.

Phóng viên: Những khó khăn và chi phí lớn nhất mà nông hộ và doanh nghiệp đang gặp phải khi áp dụng các tiêu chuẩn nuôi trồng này là gì, thưa ông?

TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi trước tiên là người nuôi, hoặc nói chung là cả ngành hàng phải hiểu rõ những quy định nào bắt buộc, những chứng nhận nào tự nguyện để có sự lựa chọn, nếu không rất dễ bị nhầm lẫn. Thứ hai là phải hiểu thật chi tiết. Ví dụ như chứng nhận ASC, người ta đòi hỏi những vấn đề gì? Chứng nhận BAP hoặc GlobalGAP đòi hỏi điều gì?

Nhìn chung, các chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt đều xoay quanh 4 vấn đề chính, là đảm bảo sản phẩm nuôi an toàn về mặt thực phẩm, đảm bảo an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường và vấn đề xã hội. Chỉ có điều là chi tiết từng tiêu chuẩn sẽ ở mức độ khác nhau.

Và khi đã hiểu rõ chi tiết thì phải nhìn lại hệ thống sản xuất hay hệ thống vận hành để xem cái gì còn trống, cái gì chưa được mới có thể khắc phục và tuân thủ.

Một điều nữa là về mặt tài chính, tức là chi phí cho những chứng nhận đó. Chi phí ở đây gồm chi phí để thay đổi, chuyển đổi, nâng cấp hệ thống sản xuất của cơ sở và chi phí để đánh giá cũng như duy trì đánh giá đó. Những chi phí này thường vượt quá cái khả năng của những người sản xuất, đặc biệt là sản xuất nhỏ lẻ. Trong khi đặc thù ở Việt Nam thì đa phần là sản xuất nhỏ.

Mặc dù các tổ chức chứng nhận có đánh giá theo nhóm, tức là thay vì riêng một hộ, họ sẽ tiến hành đánh giá một lần cả chục hay trăm hộ. Thế nhưng cái khó ở nước ta là vấn đề tổ chức để hàng chục hay hàng trăm hộ cùng làm.

“Hiện nay, việc xây dựng các quy định, hay vấn đề luật pháp ở nước ta đã ổn, nhưng các cơ quan quản lý nhà nước cần phải nhanh nhạy nắm bắt các khuynh hướng và yêu cầu của thị trường hơn nữa để có những bước chuẩn bị phù hợp, không thể để “nước đến chân” mới bắt đầu xử lý”.

TS Phạm Anh Tuấn, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Thủy sản Việt Nam

Gỡ khó từ phía ngư dân

Phóng viên: Còn trong khai thác, việc chuẩn hóa để gỡ “thẻ vàng” IUU và đáp ứng quy định MMPA (Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển của Mỹ) có tác động thế nào đến ngành thủy sản nước ta và hoạt động của ngư dân, thưa ông?

TS. Phạm Anh Tuấn: Với IUU, chúng ta vẫn xuất khẩu được hàng, nhưng tần suất và thời gian kiểm tra xuất xứ bị kéo dài làm cho chi phí cùng tổn thất tăng lên. Ngân hàng Thế giới đã có báo cáo đánh giá tác động “thẻ vàng” IUU với thủy sản Việt Nam, cho thấy xuất khẩu thủy sản Việt Nam tổn thất đáng kể về kinh tế và uy tín thị trường.

Còn với các quy định về bảo vệ động vật có vú biển, hầu như các mặt hàng hải sản, đặc biệt là đối tượng đánh bắt và các nhóm ngư cụ không tương thích hoàn toàn không xuất khẩu được vào thị trường Mỹ. Theo tôi nghĩ đấy sẽ là một tổn thất rất lớn và các nhà chuyên môn nhìn vào sản phẩm có thể tính được con số cụ thể. Chính vì thế, bắt buộc ngành thủy sản Việt Nam cần phải có sự thay đổi.

Phóng viên: Vậy, khi thực hiện đúng “chuẩn hóa” trong khai thác hải sản, ngư dân phải đối mặt với những thách thức nào, thưa ông?

TS. Phạm Anh Tuấn: Với IUU thì hiện có mấy việc, một là không được đánh bắt bất hợp pháp. Nếu như hiểu đầy đủ thì không phải chỉ có đánh bắt ở nước ngoài không phép là bất hợp pháp, mà ngay ở trong nước nếu không tuân thủ các vùng được đánh bắt và các đối tượng đã quy định cũng là một phần đánh bắt bất hợp pháp, sau đó phải xác định xuất xứ sản phẩm, tức là chứng nhận sản phẩm. Điều này rất khó và mất nhiều thời gian.

Một điểm nữa là hiện nay, số lượng tàu thuyền của nước ta rất lớn, đặc biệt nhóm tàu dưới 15m. Mặc dù quy định phải đánh bắt ven bờ nhưng thật ra lại chưa được giám sát, kể cả nhóm tàu trên 15m, dù có thể giám sát toàn bộ nhưng để vận hành và theo dõi vẫn còn khó. Ngay cả với nhóm tàu đã lắp giám sát hành trình cũng còn nhiều nan giải về vấn đề chứng nhận xuất xứ, bởi trình độ ngư dân cũng như các thói quen không phải ngày một ngày hai có thể tuân thủ ngay các quy định.

Nhanh nhạy để thích ứng và xử lý

Phóng viên: Theo ông, cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ như thế nào để người nuôi và ngư dân khai thác dễ dàng thực hiện việc chuẩn hóa này, thưa ông?

TS. Phạm Anh Tuấn: Để làm được cái này theo tôi có hai vấn đề. Đầu tiên cần xác định đây là hành động hướng tới phát triển lâu dài chứ không phải chỉ đơn thuần là đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Hiện nay, việc xây dựng các quy định, hay vấn đề luật pháp ở nước ta đã ổn, nhưng các cơ quan quản lý nhà nước cần phải nhanh nhạy nắm bắt các khuynh hướng và yêu cầu của thị trường hơn nữa để có những bước chuẩn bị phù hợp, không thể để “nước đến chân” mới bắt đầu xử lý, mà vấn đề “thẻ vàng” IUU là một bài học.

Bởi việc châu Âu đưa ra “thẻ vàng” đã có từ sớm nhưng chúng ta thiếu chuẩn bị nên không có những hành động cụ thể và đáp ứng được yêu cầu của họ. Cụ thể là thiếu hệ thống các số liệu, dữ liệu về tàu cá, về ngành nghề khai thác để chứng minh việc chúng ta đã tuân thủ các quy định này chứ không chỉ nói chung chung. Tương tự như vậy, những vấn đề có thể sắp xảy ra như phát thải, an sinh động vật hay trợ cấp nghề cá của EU…, cơ quan quản lý nhà nước phải nghiên cứu các quy định và khuynh hướng để có sự chuẩn bị và giải pháp kịp thời.

Thêm nữa, nhà nước cần tăng cường đầu tư hạ tầng, gồm cả hạ tầng vùng nuôi đến hệ thống cảng cá, bến cá… Có như vậy người sản xuất mới có thể có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn. Cùng đó là sự hỗ trợ công tác đào tạo, tổ chức sản xuất, vì ngư dân chỉ có thể lo được trong khu vực nuôi nhỏ của họ thôi.

Trong khai thác, quan trọng là cần thêm những hành động thật thiết thực. Đơn giản như việc muốn giảm sản lượng thì phải giảm số lượng tàu thuyền và quy định cấm đánh bắt có thời hạn… Tuy nhiên, trước hết phải có chính sách hỗ trợ ngư dân trong chuyển đổi nghề, đây là điều mà ngư dân cần.

Phóng viên: Trên hành trình tiến đến sự “chuẩn hóa nghề cá”, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu đóng vai trò gì trong việc thúc đẩy ngư dân và người nuôi tuân thủ các tiêu chuẩn đó, thưa ông?

TS. Phạm Anh Tuấn: Theo tôi, với doanh nghiệp nuôi họ điều kiện tốt hơn các hộ nên cần là những người tiên phong. Còn các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, họ hiểu rõ thị trường, hiểu rõ nhu cầu tiêu dùng thì nên là lực lượng chuyển tải thông điệp, nhu cầu đó với cả hai phía, cơ quan nhà nước và người sản xuất. Hơn nữa, doanh nghiệp cũng cần bắt tay với các hộ nhỏ lẻ để tổ chức lại sản xuất thành một vùng nguyên liệu lớn thì sẽ tốt hơn, chứ không chỉ thuần túy là người đi mua. Và tôi thấy hiện đã có nhiều doanh nghiệp làm được điều đó.

Phóng viên: Trong dài hạn, Việt Nam cần chiến lược tổng thể nào để chuẩn hóa toàn bộ chuỗi giá trị thủy sản? Và những giải pháp ưu tiên nào cần triển khai trong ngắn hạn và lâu dài để đạt chuẩn quốc tế, thưa ông?

TS. Phạm Anh Tuấn: Thực ra các chiến lược phát triển Việt Nam đã có hết, và tôi thấy những chiến lược đề ra là chuẩn, đã có hoạch định rõ ràng là lĩnh vực này nên phát triển thế nào, những vấn đề gì cần phải định hướng… Thế nhưng từ chiến lược đó phải thể hiện bằng hành động. Ví dụ như định hướng yêu cầu giảm khai thác, đẩy mạnh nuôi trồng, phát triển nuôi biển rồi chuyển đổi số… đã rất chuẩn, nhưng phải làm những gì? Lộ trình như thế nào? Nguồn lực và ai thực hiện thì hiện vẫn chưa rõ.

Vậy nên theo tôi, cơ quan quản lý nhà nước cần phải nhìn lại một cách tổng thể những vấn đề đang đối mặt, rà soát lại toàn bộ quy định của các thị trường, để xem cái gì chúng ta đã đáp ứng, cái gì đang còn khoảng trống. Và phải làm những điều gì, thực hiện việc nào trước để đắp vào các khoảng trống đó.

Như IUU đã rõ rồi, còn vấn đề MMPA tương tự như vậy, phải xây dựng lộ trình thực hiện. Ngoài ra, có những vấn đề bây giờ còn mới nhưng sắp tới có thể sẽ trở thành quy định hay tiêu chuẩn cao hơn như an sinh động vật, vấn đề phát thải… nên cần chuẩn bị sẵn để nhanh chóng thích ứng và thay đổi.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thu Hồng
(Thực hiện)

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!