(TSVN) – Chú trọng quan trắc môi trường được xem là chìa khóa giúp ngành thủy sản Đắk Lắk phát triển theo hướng an toàn, hiệu quả và bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét.
Với đường bờ biển dài và nhiều đầm, vịnh, tỉnh Đắk Lắk có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS). Hiện nay, tỉnh Đắk Lắk có tổng diện tích NTTS ước đạt 9.578 ha, đạt 92,9% kế hoạch năm 2025. Thống kê toàn tỉnh có khoảng 186.036 lồng nuôi thủy sản biển. Các lồng bè NTTS trên biển phân bố tại các khu vực đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài, vịnh Vũng Rô,…
Sản lượng NTTS của tỉnh ước đạt 29.221 tấn, đạt 69,28% kế hoạch, tăng 4,77% so cùng kỳ năm trước. Cá biển khoảng 1.567 tấn; tôm hùm 1.651 tấn; tôm thẻ chân trắng 9.542 tấn; tôm sú 221 tấn.
Kết quả quan trắc được thông tin nhanh đến người nuôi để có biện pháp phòng ngừa kịp thời. Ảnh: ST
Trong những năm gần đây hoạt động NTTS ngày càng phát triển, sản lượng và diện tích nuôi đã tăng lên nhiều so với các năm trước. Tuy nhiên, ngành thủy sản địa phương cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi sự biến đổi khí hậu: nắng nóng, nhiệt độ tăng cao, lượng mưa ít,… đã phần nào ảnh hưởng đến năng suất nuôi và chất lượng sản phẩm. Nhằm phát hiện đánh giá nhanh diễn biến xấu về môi trường, ngành chức năng tỉnh Đắk Lắk đã xây dựng kế hoạch quan trắc môi trường định kỳ hằng năm.
Kết quả quan trắc đã giúp các cơ quan quản lý, xây dựng lịch thời vụ nuôi trồng thích hợp, kịp thời cánh báo những rủi ro có thể xẩy ra, hướng dẫn các biện pháp xử lý, phòng ngừa khi môi trường thủy sản mất an toàn, giảm thiểu thiệt hại do môi trường gây ra, hướng đến phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững, hiệu quả.
Để tiếp tục nâng cao giá trị NTTS, UBND tỉnh Đắk Lắk vừa ban hành Kế hoạch số 0134/KH-UBND thực hiện quan trắc, cảnh báo môi trường tại một số vùng nuôi trồng chính trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2026 – 2030, các đối tượng nuôi là sản phẩm chủ lực, có giá trị kinh tế, sản lượng hàng hóa cao của tỉnh như: Tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá tầm, cá rô phi và cá nuôi lồng bè nước ngọt.
Theo đó, đối với vùng nuôi tôm nước lợ (đối tượng nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú), Địa điểm thực hiện quan trắc được thực hiện tại 03 vùng nuôi chính của tỉnh, bao gồm: Vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Cù Mông; vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Ô Loan; vùng NTTS hạ lưu sông Bàn Thạch.
Số điểm quan trắc: 08 điểm, trong đó: 06 điểm vùng nước cấp (Vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Cù Mông; vùng nuôi tôm nước lợ quanh đầm Ô Loan; vùng NTTS hạ lưu sông Bàn Thạch) và 02 ao nuôi tôm nước lợ đại diện vùng nuôi được lựa chọn từ 02 trong số 03 vùng nuôi tôm nước lợ chính của tỉnh.
Vùng nuôi tôm hùm, thực hiện quan trắc tại vùng NTTS lồng, bè thuộc đầm Cù Mông và vịnh Xuân Đài. Số điểm quan trắc: 03 điểm; mỗi điểm thu mẫu, phân tích theo 02 tầng nước (tầng đáy cách đáy 0,5 – 1 m và tầng giữa cách mặt từ 2 – 3 m) và 01 mẫu trầm tích tầng đáy tương ứng.
Vùng NTTS nước ngọt, vị trí quan trắc là vùng nuôi cá rô phi thương phẩm tại phường Ea Kao; vùng nuôi cá lồng, bè trên sông Krông Ana; vùng nuôi cá lồng, bè trên hồ thủy điện Srêpốk 3; khu vực nuôi cá tầm tại xã Nam Ka.
Số điểm quan trắc: 07 điểm (04 điểm tại khu vực nguồn nước cấp; 03 điểm đại diện cho các ao, lồng/bè nuôi thủy sản (thuộc vùng nuôi: Ea Kao, Krông Ana và Srêpốk 3)).
Kết quả quan trắc và cảnh báo được thông tin nhanh đến các cơ quan quản lý ở địa phương, người nuôi và các tổ chức cá nhân liên quan bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm kịp thời cảnh báo các sự cố về môi trường NTTS và hướng dẫn biện pháp xử lý cho người nuôi.
UBND tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Môi trường tham mưu UBND tỉnh lựa chọn hình thức phù hợp (đấu thầu rộng rãi, đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ,…) để thực hiện công tác quan trắc môi trường NTTS theo đúng quy định. Chủ trì, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc triển khai thực hiện kế hoạch, xây dựng Kế hoạch quan trắc, cảnh báo môi trường hàng năm.
Chủ trì, phối hợp thực hiện chức năng quản lý, bảo vệ môi trường các vùng nuôi trồng thủy sản nói riêng và các vùng đầm, vịnh, biển nói chung; quản lý các nguồn xả thải vào đầm, vịnh, nhất là nguồn thải từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ven đầm, vịnh, biển.
UBND các xã/phường tổ chức hướng dẫn, vận động các cơ sở NTTS thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và phòng ngừa dịch bệnh cho thủy sản nuôi; tổ chức thu gom rác thải, chất thải, thức ăn dư thừa từ các hoạt động NTTS; tuân thủ mùa vụ thả nuôi theo hướng dẫn của Sở Nông nghiệp và Môi trường; sử dụng thức ăn, chế phẩm sinh học, kháng sinh, hóa chất nằm trong danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, thông tin kịp thời cho cơ quan chức năng khi môi trường vùng nuôi có những biến đổi bất thường hoặc tình hình dịch bệnh.
Chủ động bố trí nguồn ngân sách của địa phương để thực hiện công tác bảo vệ môi trường tại các vùng ven đầm, vịnh và các vùng NTTS. Triển khai hoạt động thu gom chất thải từ nuôi trồng thủy sản ở lồng bè đưa vào bờ để được xử lý theo quy định. Kiểm tra, xử lý các cơ sở, cá nhân vi phạm cam kết, quy định bảo vệ môi trường theo quy định.
Chủ các cơ sở sản xuất giống, NTTS thương phẩm có trách nhiệm giám sát chất lượng nước cấp, nước thải của cơ sở sản xuất. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý NTTS trong quan trắc, giám sát và cảnh báo môi trường NTTS. Theo dõi các diễn biến bất thường của môi trường NTTS và báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước về NTTS tại địa phương.
Nguyễn Hằng