(TSVN) – Ngày 12/8/2021, Bộ NN&PTNT ban hành Quyết định số 3550/QĐ-BNN-TCTS phê duyệt Đề án phát triển Nuôi trồng thủy sản bền vững vùng ĐBSCL đến năm 2030. Trong đó, nuôi tôm nước lợ cũng có mục tiêu rõ ràng.
Phát triển NTTS vùng ĐBSCL bền vững, phù hợp với điều kiện từng vùng sinh thái và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, nước biển dâng; nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng, giá trị sản phẩm và hiệu quả sản xuất dựa trên việc tổ chức sản xuất phù hợp, đầu tư đồng bộ và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào toàn chuỗi giá trị sản phẩm; đưa NTTS trở thành lĩnh vực có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế – xã hội vùng ĐBSCL.
Tốc độ tăng trưởng giá trị NTTS đạt trên 4%/năm; giá trị xuất khẩu đạt trên 9 tỷ USD (giá trị xuất khẩu tôm nước lợ và cá tra đạt trên 80% giá trị xuất khẩu của vùng).
Diện tích NTTS đạt trên 990.000 ha (nuôi nước mặn, lợ 740.000 ha, nuôi nước ngọt 150.000 ha và 1.260.000 m3 nuôi lồng trên sông). Trong đó: tôm nước lợ đạt 720.000 ha (tôm rừng 50.000 ha, tôm lúa 250.000 ha, TTCT 90.000 – 95.000 ha); tôm càng xanh đạt 50.000 ha; 1.260.000 m3 lồng bè (nuôi cá rô phi nước lợ theo hình thức kết hợp với tôm nước lợ và nuôi luân canh đạt 4.390 ha).
Sản lượng NTTS đạt trên 4.800.000 tấn. Trong đó, tôm nước lợ đạt trên 1.200.000 tấn; tôm càng xanh đạt trên 80.000 tấn.
100% vùng NTTS tập trung được kiểm soát môi trường, dịch bệnh và an toàn thực phẩm; giảm tỷ lệ diện tích thiệt hại do một số bệnh nguy hiểm gây ra trên tôm nuôi nước lợ xuống dưới 10%/năm.
Mục tiêu đến năm 2030, tôm nước lợ đạt trên 1.200.000 tấn. Ảnh: Gettyimages
Diện tích và sản lượng NTTS được sản xuất theo mô hình hợp tác và liên kết chuỗi đạt trên 30%; lao động NTTS được tập huấn, đào tạo nghề đạt trên 30%; diện tích NTTS đạt một trong các chứng nhận GAP, hữu cơ và các chứng nhận chất lượng khác đạt trên 30%; hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là hệ thống thủy lợi đáp ứng được trên 50% nhu cầu ở các vùng NTTS tập trung.
Một số huyện/thị xã thuộc 11 tỉnh/thành phố (trừ An Giang và Cà Mau): Phát triển NTTS chuyên canh, xen canh các đối tượng thủy sản nước ngọt; ưu tiên phát triển nuôi các đối tượng thủy sản có khả năng thích nghi rộng với độ mặn như tôm càng xanh, cá rô phi, cá kèo… ở những vùng giáp ranh mặn ngọt.
Vùng NTTS mặn lợ (bao gồm một số huyện/thị xã thuộc các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang): Tập trung phát triển NTTS mặn lợ (tôm sú, TTCT, cua, nhuyễn thể và các giống loài thủy sản mặn lợ khác); tổ chức rà soát, đánh giá tác động và chuyển đổi diện tích đất nông nghiệp bị nhiễm mặn sang phát triển nuôi các đối tượng thủy sản với các hình thức nuôi phù hợp (chuyên canh, xen canh, luân canh…).
Tôm nước lợ (tôm sú, TTCT): Tiếp tục thực hiện Quyết định số 3475/QĐ-BNN-TCTS ngày 30/8/2018 của Bộ NN&PTNT ban hành Đề án tổng thể phát triển ngành công nghiệp tôm nước lợ Việt Nam đến năm 2030. Phát triển nuôi tôm sú sinh thái ở rừng ngập mặn, nuôi hữu cơ, nuôi tôm – lúa ở khu vực ven biển, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai tại địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm nhập. Ưu tiên ứng dụng đất tại địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm nhập mặn. Ưu tiên ứng dụng kỹ thuật, khoa học công nghệ mới, quản lý tốt môi trường, dịch bệnh để nâng cao năng suất tôm nuôi. Phát triển nuôi TTCT theo hướng công nghiệp, áp dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái. Nâng cao tỷ lệ diện tích nuôi tôm nước lợ đạt một trong những chứng nhận GAP, ASC, nuôi hữu cơ… đáp ứng các yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
Tôm càng xanh và giáp xác khác: Thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp tại Quyết định 4354/QĐ-BNN-TCTS ngày 2/11/2020 của Bộ NN&PTNT về Đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu tôm càng xanh. Phát triển các hình thức nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu, bền vững trong đó: (i) các tỉnh vùng thượng đồng bằng gồm An Giang, Đồng Tháp, Long An và một phần của Kiên Giang ưu tiên phát triển hình thức nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh, áp dụng công nghệ tiên tiến, tiết kiệm nước hoặc nuôi tôm càng xanh – lúa xen canh; (ii) các tỉnh vùng giữa gồm Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long và một phần của Tiền Giang ưu tiên phát triển tôm càng xanh – lúa xen canh, tôm càng xanh – mương vườn; (iii) các tỉnh ven biển gồm Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh, Sóc Trăng…, vùng giáp ranh nước ngọt – mặn lợ, ưu tiên phát triển nuôi tôm càng xanh – lúa thâm canh, hướng đến xây dựng những vùng sản xuất quy mô lớn, đảm bảo đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Xây dựng, phát triển nuôi tôm càng xanh hữu cơ, sinh thái gắn với chứng nhận chất lượng tại các vùng tôm trọng điểm. Phát triển nuôi cua, ghẹ theo hướng chuyên canh, kết hợp với nuôi tôm, nhuyễn thể… để tạo sản phẩm lớn, giá trị cao, định hướng xuất khẩu.
Phát triển hệ thống sản xuất, cung ứng giống và vật tư phục vụ NTTS
Nâng cấp, mở rộng hệ thống lưu giữ, sản xuất, ương dưỡng giống đáp ứng yêu cầu về chất lượng, số lượng giống phục vụ nuôi thương phẩm.
Chủ động sản xuất đủ nguồn giống chất lượng cao phục vụ nuôi thương phẩm trong vùng và hướng tới cung cấp con giống cho các vùng nuôi khác trên phạm vi cả nước. Hình thành các trung tâm sản xuất giống tôm sú, TTCT chất lượng cao quy mô lớn ở khu vực Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Tổ chức sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực cho các cơ sở sản xuất giống trong vùng để đáp ứng đủ con giống đảm bảo chất lượng phục vụ sản xuất.
Phát triển các cơ sở nghiên cứu, sản xuất, cung cấp vật tư đầu vào gắn với trung tâm nghề cá lớn để phục vụ phát triển NTTS vùng ĐBSCL.
Hỗ trợ phát triển liên kết giữa sản xuất thức ăn với các vùng nuôi tập trung, tiến tới 100% nguồn thức ăn sản xuất trong nước đáp ứng đủ nhu cầu số lượng, chất lượng phục vụ sản xuất giống và nuôi thương phẩm.
Phạm Thu