(TSVN) – Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị, lượng lysine tối thiểu cho cá chim trắng với khẩu phần 40% đạm thực vật nên chiếm tỷ lệ 1,67% trong công thức thức ăn.
Thức ăn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí nuôi biển và protein là một trong những chi phí cơ bản. Do đó, cần phải tối ưu thức ăn công thức và trước tiên rà soát thành phần acid amin bởi đây mới là yếu tố dinh dưỡng quyết định tăng trưởng của cá biển. Trong đó, acid amin thiết yếu quan trọng nhất do vật nuôi không có khả năng tự tổng hợp đủ lượng để hỗ trợ tăng trưởng.
Để cải thiện hiệu quả thức ăn cho cá biển, cần đảm bảo đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng chính xác hết mức có thể. Cá chim Florida hay cá chim vây vàng đều là những đối tượng nuôi thương mại nhưng vẫn chưa có thông tin khoa học về nhu cầu acid amin của các loại cá này. Thiếu hụt acid amin thiết yếu khiến vật nuôi chậm tăng trưởng và sử dụng thức ăn kém hiệu quả.
Methionine và lysine là những acid amin giới hạn đầu tiên nhưng lượng taurine cũng bị hạn chế trong công thức thức ăn của cá biển. Có nhiều thông tin khoa học về nhu cầu taurine và lượng methionine hợp lý trong thức ăn cho cá biển nhưng lysine vẫn chưa có. Bổ sung đủ lượng lysine trong thức ăn của cá biển cải thiện tăng trưởng, nâng cao tỷ lệ sống và cũng là một giải pháp ngăn chặn bệnh thối vây. Ngoài ra, lysine cải thiện khả năng giữ lại protein trong thân và thịt cá.
Tiến hành đánh giá 8 nghiệm thức tỷ lệ lysine 1,42 – 2,43% (trọng lượng khô) tại Trung tâm nuôi biển Claude Peteet (CPMC) ở Gulf Shores, Mỹ. Cá chim trắng Florida non do Công ty Aquaco Farms cung cấp (Vero Beach, FL, Mỹ). Số cá chim này được thả vào hệ thống tuần hoàn bán kín gồm 36 bể tròn polyethylene 750 lít. Cho cá ăn no bằng thức ăn công nghiệp khởi đầu đến khi đạt cỡ phù hợp để bắt đầu thử nghiệm.
Bắt đầu thử nghiệm tăng trưởng, thả 20 con cá vào mỗi bể nuôi, lặp lại nghiệm thức 3 lần. Cho cá ăn 4 lần/ngày vào các giờ 7h; 11h; 15h và 19h. Đánh giá trọng lượng thân cuối trung bình, hệ số tăng trưởng do nhiệt (TGC), tỷ lệ tăng trưởng khối lượng (PWG), hiệu quả hấp thụ protein (PRE) và hấp thụ lysine (LRE) bằng mô hình hồi quy để ước tính nhu cầu lysine. Sau đó tính toán hệ số TGC và hiệu quả hấp thu protein.
Dựa trên những kết quả của thử nghiệm, nhóm nghiên cứu đã tìm ra liều lượng lysine tác động đến tăng trưởng. Theo đó, nhu cầu lysine tối thiểu phải đạt tỷ lệ 1,67% khẩu phần tính theo trọng lượng khô. Đây cũng là mức khuyến nghị trong thức ăn thủy sản chứa 40% đạm thực vật thường dùng để nuôi cá chim trắng Florida.
Trọng lượng cuối trung bình, TGC, và PWG khác biệt đáng kể giữa nghiệm thức đối chứng và thử nghiệm. Cá được cho ăn khẩu phần cơ bản (đối chứng) phát triển kém hơn nhóm cá còn lại. Tăng trưởng của cá chim ổn định sau khi tỷ lệ lysine đạt 1,57% trọng lượng khô. Thiếu hụt lysine như trong khẩu phần cơ bản làm cá chậm tăng trưởng và ăn kém.
Theo nhóm nghiên cứu, cá chim trắng Florida ăn khẩu phần 2,26 – 2,43% lysine có tỷ lệ lysine trong thân thịt cao hơn đáng kể so với nhóm cá ăn khẩu phần 1,42 – 1,57% lysine. Điều này khẳng định hiệu quả hấp thu lysine tỷ lệ thuận với lượng lysine bổ sung trong thức ăn. Ở tỷ lệ 1,61% lysine, hiệu quả hấp thụ lysine cũng giảm ở tất cả các nghiệm thức, chứng tỏ khả năng hấp thụ lysine kém nếu lượng lysine bổ sung thấp hơn nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi. Nhưng hiệu quả lysine cũng giảm dần khi lượng lysine vượt qua nhu cầu dinh dưỡng. Do đó, sử dụng quá nhiều lysine trong khẩu phần ăn của cá chim Florida không cần thiết và gây tốn kém chi phí.
Các loại đạm thực vật như khô đậu được sử dụng nhiều trong thức ăn thủy sản và có hàm lượng lysine thấp hơn đạm động vật. Do đó, ngành dinh dưỡng cá biển phải định lượng acid amin thiết yếu như lysine trong thức ăn công nghiệp chứa đạm thực vật. Tuy nhiên, vẫn cần phải nghiên cứu thêm nhu cầu của cá chim đối với acid amin thiết yếu khác để tiếp tục duy trì hướng phát triển thức ăn hiệu quả chi phí hơn.
Dũng Nguyên
(Theo Globalseafood)