Đổi mới quản lý giống thủy sản đáp ứng yêu cầu nuôi quy mô lớn

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Năm 2025, sản xuất giống thủy sản tiếp tục giữ vai trò “nền móng” cho nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản khi tổng sản lượng con giống các loại ước đạt hơn 392,5 tỷ con, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn tạo dư địa cho tăng trưởng.

Sản lượng tăng, cơ cấu giống ngày càng đa dạng

Theo tổng hợp từ các địa phương, năm 2025 tổng sản lượng giống thủy sản sản xuất trong nước ước đạt 392,5 tỷ con, tăng nhẹ so với năm 2024, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu giống tiếp tục đa dạng, tập trung vào các đối tượng chủ lực như tôm nước lợ, cá tra, nhuyễn thể, cá biển, rô phi/điêu hồng, cá nước lạnh và các loài bản địa, truyền thống.

Trong đó, giống tôm nước lợ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các tỉnh trọng điểm về sản xuất tôm giống như Khánh Hòa, Lâm Đồng, Cà Mau, Vĩnh Long hiện chiếm khoảng 93% tổng số cơ sở và hơn 63% sản lượng giống cả nước. Riêng khâu ương dưỡng giống, các địa phương này cùng với An Giang chiếm gần 90% số cơ sở và khoảng 77% sản lượng.

Nguồn tôm bố mẹ phục vụ sản xuất giống tiếp tục được đảm bảo từ ba nguồn: nhập khẩu, khai thác tự nhiên và chọn tạo trong nước. Năm 2025, tổng lượng tôm bố mẹ sử dụng ước đạt gần 190 nghìn con, tương đương năm trước. Đáng chú ý, tỷ lệ tôm bố mẹ có nguồn gốc trong nước ngày càng tăng, đặc biệt với tôm sú – đối tượng gần như hoàn toàn chủ động từ nguồn nội địa. Số lượng tôm sú bố mẹ chọn giống trong nước đã tăng mạnh trong vài năm gần đây, phản ánh kết quả của quá trình đầu tư nghiên cứu, chọn tạo.

Với tôm thẻ chân trắng, xu hướng giảm dần phụ thuộc vào nhập khẩu thể hiện khá rõ. Lượng tôm bố mẹ nhập khẩu năm 2025 ước còn khoảng 112 nghìn con, giảm mạnh so với giai đoạn trước. Song song đó, số lượng tôm thẻ bố mẹ có nguồn gốc trong nước tiếp tục tăng, tạo tiền đề quan trọng để tiến tới tự chủ nguồn giống trong trung và dài hạn.

Cùng với tôm bố mẹ, sản lượng tôm giống thương phẩm năm 2025 ước đạt khoảng 167,6 tỷ con, tăng hơn 5% so với năm 2024. Trong đó, tôm thẻ chân trắng chiếm khoảng 117 tỷ con, tôm sú đạt trên 50 tỷ con. Sự gia tăng này phản ánh nhu cầu nuôi trồng ổn định và xu hướng mở rộng diện tích nuôi theo hướng thâm canh, ứng dụng công nghệ cao.

Ở lĩnh vực cá tra, cả nước hiện có hơn 1.900 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống, tập trung chủ yếu tại Đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng cá tra giống năm 2025 ước đạt khoảng 4,55 tỷ con, tăng hơn 13% so với năm trước. Giá cá tra giống cỡ 30 con/kg dao động từ 24.000 – 33.000 đồng/kg, tùy từng địa phương, cho thấy thị trường giống cá tra nhìn chung ổn định.

Theo đánh giá của ngành chuyên môn, chất lượng giống cá tra giữ vai trò then chốt, quyết định hiệu quả nuôi, khả năng tăng trưởng, tiêu tốn thức ăn và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Vì vậy, việc quản lý đàn cá bố mẹ, kiểm soát nguồn gốc di truyền và tránh lai cận huyết đang được đặt lên hàng đầu.

Sản xuất giống nhuyễn thể tiếp tục phát triển, với khoảng 836 cơ sở trên cả nước. Năm 2025, sản lượng giống nhuyễn thể ước đạt gần 195 tỷ con, tăng hơn 2% so với năm 2024. Các đối tượng chủ lực vẫn là ngao, hàu Thái Bình Dương, tu hài, ốc hương. Tuy nhiên, ở các tỉnh phía Bắc, nguồn giống tại chỗ chưa đáp ứng đủ nhu cầu nuôi, dẫn đến tình trạng phải nhập nội từ Trung Quốc hoặc vận chuyển từ các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.

Riêng cá biển, năm 2025 sản lượng giống ước đạt gần 266 triệu con, tăng hơn 9% so với năm trước. Dù đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống của nhiều loài cá có giá trị kinh tế cao như cá song, cá chim vây vàng, cá giò, cá chẽm…, song việc chuyển giao công nghệ vào sản xuất đại trà còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu do chi phí đầu tư lớn, rủi ro cao trong khi lợi nhuận chưa thực sự hấp dẫn, khiến khu vực doanh nghiệp chưa mạnh dạn tham gia.

Cá giống điêu hồng F1 của Tập đoàn Thăng Long. Ảnh: Thùy Khánh 

Đối với rô phi và điêu hồng, cả nước hiện có hơn 230 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống, sản lượng ước đạt gần 3 tỷ con/năm, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu nuôi phục vụ xuất khẩu. Giá giống tương đối ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi mở rộng quy mô.

Trong khi đó, giống cá nước lạnh vẫn là lĩnh vực còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu trứng đã thụ tinh. Nhu cầu mỗi năm khoảng 5 – 5,5 triệu con giống, nhưng sản xuất trong nước mới đáp ứng được khoảng 40%. Riêng năm 2024, Việt Nam nhập khẩu trên 30 triệu trứng cá tầm và cá hồi vân. Ước tính năm 2025, tổng sản lượng giống cá nước lạnh sản xuất trong nước đạt khoảng 6 triệu con.

Với nhóm cá bản địa, truyền thống như mè, trôi, trắm, chép, sản lượng giống năm 2025 ước đạt gần 2,9 tỷ con, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong nuôi thủy sản nước ngọt, đặc biệt ở quy mô nông hộ và vùng sâu, vùng xa.

Hướng tới chất lượng và an toàn sinh học

Hiện nay, cả nước có hơn 7.300 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, trong đó gần 2.800 cơ sở thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện. Tỷ lệ cơ sở đã được kiểm tra, chứng nhận đạt trên 71%. Công tác quản lý được phân cấp rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, tập trung kiểm soát điều kiện sản xuất, chất lượng giống và an toàn dịch bệnh.

Ương dưỡng tôm càng sen giống tại Trại giống thủy sản, Trung tâm Nông Lâm nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc. Ảnh: Thùy Khánh

Thời gian tới, ngành thủy sản đặt mục tiêu tổng sản lượng giống đạt 390 – 410 tỷ con/năm, đồng thời nâng tỷ lệ cơ sở đáp ứng yêu cầu an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, đặc biệt với tôm giống và cá tra giống. Định hướng xuyên suốt là giảm dần phụ thuộc vào nguồn giống nhập khẩu, nhất là tôm bố mẹ và trứng cá nước lạnh, thông qua đẩy mạnh nghiên cứu, chọn tạo trong nước.

Để đạt được mục tiêu trên, Cục Thủy sản và Kiểm ngư xác định một loạt nhiệm vụ trọng tâm: hoàn thiện hạ tầng sản xuất giống tại các vùng có lợi thế; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, chọn tạo giống bố mẹ chất lượng cao; xây dựng và áp dụng đồng bộ các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng và an toàn sinh học. Cùng với đó là phát triển giống theo nhóm loài, gắn với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái từng vùng; tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm về chất lượng giống; đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý, truy xuất nguồn gốc và xây dựng cơ sở dữ liệu giống thủy sản.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, dịch bệnh diễn biến phức tạp và yêu cầu thị trường ngày càng khắt khe, việc chủ động nguồn giống, kiểm soát chất lượng ngay từ “đầu vào” được xem là chìa khóa để nâng cao sức cạnh tranh của thủy sản Việt Nam.

Thùy Khánh

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!