(TSVN) – 8 tháng đầu năm 2025, ngành tôm giữ vững ổn định sản xuất, đạt mức tăng trưởng khả quan. Để đảm bảo mục tiêu cả năm, toàn ngành đã và đang tập trung cao độ, thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, dốc toàn lực cho chặng “nước rút”.
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, 8 tháng đầu năm 2025, cả nước thả nuôi gần 711.000 ha tôm nước lợ, đạt 99,2% kế hoạch; trong đó, tôm sú 604.500 ha, bằng 100,18% kế hoạch và TTCT 106.500 ha, bằng 93,9% kế hoạch. Tổng sản lượng tôm đã thu hoạch ước đạt 801.200 tấn, tăng 6,2% so cùng kỳ; trong đó, sản lượng tôm sú 184.100 tấn, bằng 66,7% kế hoạch và tăng 3,5%, TTCT 617.100 tấn, bằng 65,6% kế hoạch và tăng 7% so cùng kỳ. Các cơ sở nuôi trồng tiếp tục đẩy mạnh đầu tư theo hướng ứng dụng công nghệ cao, phát triển mô hình nuôi siêu thâm canh, thâm canh mang lại hiệu quả kinh tế.
Áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Ảnh: Phan Hương Giang
Kim ngạch xuất khẩu tôm ước đạt 2,9 tỷ USD, tăng 18,2% so cùng kỳ. Các thị trường chính như: EU, CPTPP, Trung Quốc,… đều có sự tăng trưởng mạnh, riêng thị trường Mỹ có dấu hiệu chững lại từ tháng 7 do tác động từ thuế quan.
Các con số tăng trưởng trên tuy chưa phải là quá lớn, nhưng nếu nhìn vào diễn biến sau 8 tháng của vụ tôm nước lợ năm 2025 với đầy rẫy những rủi ro, khó khăn chồng chất, mới thấy hết sự nỗ lực vượt khó của toàn ngành. Trong đó, khó khăn đầu tiên và cũng gần như là thường trực với mỗi mùa tôm chính là dịch bệnh.
Báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho thấy, diễn biến dịch bệnh trong 8 tháng đầu năm là phức tạp và có xu hướng lan rộng. Trong đó, bệnh đốm trắng là loại phổ biến nhất, xảy ra trên 1.561,62 ha, chiếm 3,17%, kế đến là bệnh hoại tử gan tụy cấp chiếm 3,26%, bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và mô tạo máu,… Một số bệnh khác cũng được ghi nhận như: đường ruột, EHP, phân trắng,…
Năm nay, dịch bệnh trên tôm tuy không bùng phát lớn và gây thiệt hại nặng cho người nuôi tôm, nhưng vẫn diễn ra rải rác và gần như có mặt mọi lúc, mọi nơi, mà theo cách nói của người nuôi tôm là “rất khó chịu”. Bởi dù hầu hết những loại bệnh như: đốm trắng, phân trắng, EHP, EMS,… đều rất “quen mặt” với người nuôi, nhưng cách phòng trị thì không hề dễ dàng chút nào, nên thiệt hại vẫn cứ diễn ra dù mức độ không lớn.
Các chuyên gia nhận định, ngành tôm hiện tại vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dịch bệnh, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, môi trường nuôi ngày càng bất ổn. Điển hình như việc kiểm soát những loại bệnh, như: đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, phân trắng,… đến nay vẫn còn hết sức khó khăn do nhiều nguyên nhân: giống không đảm bảo chất lượng, thức ăn và chế phẩm sinh học kém hiệu lực, điều kiện môi trường ô nhiễm, và đặc biệt là sự thiếu hụt dữ liệu dịch tễ học đáng tin cậy, nên bệnh vẫn tiếp tục gây thiệt hại đáng kể trên tôm sú và TTCT.
Theo ông Võ Văn Phục, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy sản sạch Việt Nam, nuôi tôm vụ này rất khó, vì ngoài yếu tố mưa bão thất thường thì dịch bệnh rất nhiều, mà tâm điểm là bệnh do EHP và các bệnh liên quan đường ruột. “Đối với người nuôi tôm, những năm gần đây, mỗi khi nói tới EHP là họ rất sợ vì đến nay gần như chưa có giải pháp hay phác đồ đặc trị đối với loại bệnh này. Họ sợ còn vì bệnh này khiến tôm chậm lớn, làm tăng chi phí và thời gian nuôi”, ông Phục nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, mặc dù, sản lượng tôm nước lợ tăng 6,2% sau 8 tháng, nhưng vẫn còn khoảng cách so với mục tiêu năm, đòi hỏi ngành tôm phải nỗ lực lớn trong 4 tháng cuối năm.
Đặc biệt, lĩnh vực xuất khẩu vẫn phải đối mặt với thử thách lớn về thuế quan tại thị trường Mỹ. Đây cũng chính là tâm điểm mà ngành tôm phải cố gắng vượt qua nếu muốn về đích đúng như kế hoạch.
Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư, những tháng cuối năm sẽ là giai đoạn tăng tốc với nhiều nhiệm vụ để đảm bảo mục tiêu cả năm. Ở lĩnh vực nuôi trồng, các địa phương cần theo dõi sát diễn biến thời tiết, nhất là xâm nhập mặn tại ĐBSCL, để chủ động ứng phó và bảo đảm sản lượng. Công tác quản lý giống, thức ăn, thuốc thú y và phòng chống dịch bệnh sẽ được siết chặt.
Các địa phương cần hướng dẫn doanh nghiệp và người nuôi ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, phát triển sản phẩm thủy sản xanh, hữu cơ, tuần hoàn, bền vững nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm. Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm giá thành sản xuất, áp dụng kỹ thuật nhằm tăng tỷ lệ sống, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR),…
Hiện các tỉnh ĐBSCL đang bước vào cao điểm mùa mưa bão, vì vậy, Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành khu vực nuôi tôm ở ĐBSCL tiếp tục chủ động khuyến cáo người dân các giải pháp nhằm quản lý hiệu quả quá trình thả nuôi thủy sản; triển khai các chương trình giám sát dịch bệnh chủ động và bị động tại vùng nuôi; tăng cường kiểm tra tôm giống nhập tỉnh nhằm xác định tác nhân gây bệnh để thông tin cảnh báo kịp thời đến người nuôi chủ động trong sản xuất. Đẩy mạnh công tác quan trắc môi trường vùng nuôi, khuyến cáo giải pháp ngăn ngừa dịch bệnh trong tôm nuôi.
Về phía người nuôi, cũng nên thường xuyên cập nhật bản tin thời tiết, khí tượng thủy văn, bản tin giá cả thị trường để có thông tin phục vụ sản xuất tốt nhất. Để chủ động ứng phó với điều kiện thời tiết cực đoan và hạn chế được dịch bệnh, người nuôi nên tăng cường các biện pháp về: quan tâm chất lượng con giống, quản lý môi trường ao nuôi, thức ăn, dịch bệnh,…
Ở lĩnh vực xuất khẩu, để giữ đà tăng trưởng, doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hóa thị trường, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, đáp ứng yêu cầu chứng nhận khắt khe và xây dựng chiến lược giá phù hợp với biến động chính sách quốc tế.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định, trong bối cảnh xuất khẩu tôm sang Mỹ gặp khó, EU sẽ nổi lên là một điểm đến trong chuyển dịch xuất khẩu. Để thúc đẩy xuất khẩu tôm sang EU, VASEP khuyến cáo các doanh nghiệp cần đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt từ EU. Các nhà nhập khẩu ngày càng quan tâm đến: Tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc rõ ràng; Tuân thủ các chứng nhận như ASC, GlobalG.A.P, Organic.
Mặt khác, EU có xu hướng ưu tiên sản phẩm chất lượng cao, đóng gói có thương hiệu, đặc biệt là các dòng TTCT bóc vỏ, tôm sú nuôi tự nhiên, chứng nhận sinh thái. Do vậy, các doanh nghiệp Việt muốn gia tăng xuất khẩu vào thị trường EU cần phải có chiến lược tiếp thị rất cụ thể, giúp xây dựng hình ảnh thương hiệu cho sản phẩm của mình. Theo đó, doanh nghiệp cần định vị lại chiến lược cạnh tranh, chuyển từ cạnh tranh giá sang tập trung vào chất lượng, bền vững, minh bạch.
“Nâng cao tỷ lệ nuôi tôm thành công để giảm giá thành, kết hợp với năng lực chế biến sâu của các doanh nghiệp lớn là điều kiện tiên quyết giữ vững lợi thế ngành tôm nước ta”, ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư khẳng định.
Xuân Trường