Công nghệ sinh học là chìa khóa cho sự đổi mới trong chăn nuôi, nuôi trồng và chế biến thủy sản. Đồng thời nó được coi là giải pháp ưu việt để có năng suất, chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững.
Sự lựa chọn chuẩn mực
Gần 2 thập kỷ qua, ngành thủy sản nước ta đã không ngừng phát triển về quy mô diện tích, sản lượng, đóng góp quan trọng cho GDP của đất nước. Bên cạnh sự phát triển đó, chúng ta hằng ngày phải đối mặt nạn ô nhiễm nguồn nước do hàng triệu tấn chất thải và hóa chất, gây tác động xấu đến môi trường sinh thái, tạo điều kiện cho dịch bệnh bùng phát gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi. Vấn đề sử dụng hóa chất, kháng sinh bừa bãi đã gây tồn dư trong tôm cá nuôi, mất an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng và cản trở xuất khẩu. Cùng đó, chất lượng con giống chưa được kiểm soát chặt, việc lai tạo tràn lan đã làm suy giảm chất lượng giống, gây tỷ lệ hao hụt lớn trong quá trình nuôi.
Làm thế nào tạo được con giống chất lượng cao, hạn chế được ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, đảm bảo sản phẩm sạch phục vụ xuất khẩu. Nhiều hội thảo được tổ chức nhằm tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất. Cuối cùng các nhà nghiên cứu, quản lý, doanh nghiệp và người nuôi đều xác định CNSH là lựa chọn tốt nhất để giải quyết các vấn đề trên.
Nuôi tôm theo công nghệ sinh học đem lại hiệu quả bền vững – Ảnh: PTC
Ông Lê Anh Xuân, Giám đốc Công ty TNHH SX & TM Trúc Anh, cho rằng: Sử dụng CNSH trong nuôi trồng thủy sản là rất cần thiế, bởi nó giữ được cân bằng hệ vi sinh vật trong nước, giảm ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, sản phẩm sẽ không tồn dư hóa chất. Đồng thời hướng đến các sản phẩm sinh học tự nhiên nhằm khống chế sinh vật có hại và phát triển sinh vật có lợi, tạo ra môi trường sống tự nhiên, an toàn cho vật nuôi và người tiêu dùng.
Hướng đi an toàn và bền vững
Xác định được tầm quan trọng CNSH đối với ngành thủy sản, năm 2008, Bộ NN&PTNN phê duyệt “Đề án phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực thủy sản đến năm 2020” với kinh phí hơn 45 tỷ đồng. Trong đó, đáng kể nhất là kết quả gia hóa và sản xuất tôm he chân trắng bố mẹ sạch bệnh tại Việt Nam; chọn giống và chuyển giao cho các trại giống ở ĐBSCL hơn 1 vạn con cá tra hậu bị làm cá bố mẹ. Nghiên cứu sản xuất 5 chế phẩm sinh học xử lý ô nhiễm nước và bùn đáy ao nuôi tôm, cá tại ĐBSCL. Hướng tới giảm sử dụng hóa chất, kháng sinh trong nuôi và sản xuất giống thủy sản, nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao và an toàn.
Xét về tổng thể, việc triển khai các ứng dụng CNSH trong nuôi trồng thủy sản ở nước ta còn chậm. Sự tham gia của các địa phương, doanh nghiệp chưa nhiều, việc chuyển giao và tiếp nhận công nghệ tiên tiến còn ít. Nhiều nghiên cứu CNSH thủy sản mới dừng ở sản xuất thử nghiệm.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II cho biết, hiện nay lực lượng nghiên cứu khoa học CNSH thủy sản còn mỏng nên chưa tạo ra và triển khai được các chương trình đem lại hiệu quả cao. Do đó, cần tiếp cận nhanh thành tựu khoa học CNSH thủy sản tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều cấp độ, từ kỹ thuật viên, cán bộ nghiên cứu hay nhà khoa học lớn, để nhanh chóng ứng dụng vào sản xuất, giúp người nuôi từng bước tháo gỡ khó khăn, vươn lên làm giàu.
>> Thứ trưởng Bộ NN&PTNN Nguyễn Thị Xuân Thu cho biết: Hiện nay, việc ứng dụng CNSH trong phát triển nuôi trồng thủy sản được ngành NN&PTNN xác định theo hướng nghiên cứu và ứng dụng tập trung vào các đối tượng chủ lực. Bao gồm: Vấn đề di truyền chọn giống, tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, ưu tiên chọn giống mới, bản địa. |