(TSVN) – Công nghệ lồng bè ngoài khơi, vệ tinh, AI, cảm biến và RAS đang trở thành tâm điểm của ngành nuôi cá vây. Thế nhưng ít ai chú ý đến khả năng của những công nghệ này trong công cuộc đổi mới sản xuất cho những trại nuôi quy mô nhỏ để đảm bảo an ninh lương thực.
Những công nghệ tiên tiến nhất đang có xu hướng chiếm lĩnh ngành công nghiệp NTTS và chủ yếu tập trung vào việc tăng cường tự động hóa để hỗ trợ hoạt động nuôi cá vây tiến xa hơn ra ngoài đại dương mà vẫn đảm bảo sản lượng ngày càng tăng. Nhiều người tin rằng, những công nghệ hiện đại sẽ thay đổi mang tính đột phá về an ninh lương thực và phát triển bền vững.
Trong khi đó, hàng trăm nghìn hộ nuôi thủy sản quy mô nhỏ đang có nhu cầu tiếp cận những công nghệ cơ bản để có thể vận hành hoạt động hàng ngày của trang trại thì lại gặp phải không ít trở ngại. Để tiếp cận công nghệ, dù cơ bản nhất như kho lạnh, đường xá, công nghệ di động, họ cũng gặp nhiều rào cản chứ chưa nói đến những công nghệ cao xa như cảm biến, mạng máy tính hay chuyển giao kiến thức.
Nếu ngành công nghiệp NTTS bắt đầu áp dụng các giải pháp công nghệ cơ bản để xây dựng cơ sở hạ tầng trang trại và chuỗi giá trị cho các hộ sản xuất quy mô nhỏ, sẽ tạo ra những bước tiến lớn về đảm bảo an ninh lương thực. Nhưng các diễn đàn công nghệ NTTS gần đây hầu như chỉ xoay quanh cảm biến, vệ tinh và cơ sở hạ tầng hiện đại cho một số trại nuôi cá vây phổ biến. Nếu ngành NTTS có thể tái sử dụng công nghệ và cơ sở hạ tầng cùng kiến thức của ngành cá hồi và áp dụng trong các lĩnh vực nuôi các loại cá khác thì chắc chắn người sản xuất có thể tạo ra những cải tiến quy mô lớn ở cấp độ trại nuôi, tương đương với nhiều lợi ích về an ninh lương thực.
Tích hợp công nghệ trong NTTS, dù là phần cứng hay mềm không phải lúc nào cũng đơn giản. Hoạt động nuôi cá, nhuyễn thể và rong biển chủ yếu diễn ra ở quy mô nhỏ và công nghệ thấp, tập trung tại các nước đang phát triển. Ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực này cũng gặp phải nhiều khó khăn bởi sự hạn chế về kỹ năng của người nông dân. Lĩnh vực nuôi nhuyễn thể cũng đang bị phân tán và phụ thuộc vào phương pháp canh tác truyền thống nhưng còn nhiều tiềm năng để cải tiến công nghệ. Ví dụ, người nuôi ngao ở Bồ Đào Nha đã sử dụng lồng đèn đan lưới để nuôi ngao trên biển thay vì phương pháp nuôi truyền thống ở đáy vịnh hoặc cửa sông. Đã đến lúc người nông dân phải quen dần với việc ghi chép dữ liệu, dù ban đầu họ có thể làm việc này bằng tay. Trước mắt, cần giúp người nuôi quy mô nhỏ tiếp cận cảm biến không quá đắt tiền, để họ có phương tiện đo chất lượng nước, ôxy, tảo, từ đó nâng cao lợi nhuận và bảo vệ môi trường.
Phó Giám đốc Global Ocean Initiatives, Monterey Bay Aquarium