Nuôi trồng thủy sản (NTTS) đang là một trong những lựa chọn mang tính thực tế duy nhất cho việc đáp ứng nhu cầu thủy sản trên toàn cầu và cung cấp cho toàn thế giới trong tương lai, nhất là khi khai thác không thể phát triển bền vững.
Kỳ I – NTTS ở châu Á: Cơ cấu và thách thức
Một vài trang trại nuôi cá kết hợp cả hoạt động sản xuất cá, giống, trong khi một số khác chỉ chọn một trong hai hoạt động trên. NTTS thường phụ thuộc đất liền (ao, ruộng lúa..), nhưng cũng có những hoạt động nuôi cá trong nước tự nhiên (nuôi cá lồng, bè…). Hầu hết các hình thức NTTS trên đều thực hiện tại châu Á. Đây là khu vực sản xuất và xuất khẩu đầu tiên, cung cấp sản phẩm có giá trị cao cho Mỹ, EU. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực về môi trường, xã hội gắn với sự tăng trưởng nhanh của ngành NTTS, những lỗ hổng của các nhà sản xuất quy mô nhỏ đang được nhìn thấy rõ và cần phải được giải quyết.
Đảm bảo an ninh lương thực và an toàn thực phẩm (ATTP) liên quan sản phẩm thủy sản đang nổi lên như vấn đề ưu tiên trong những năm qua và châu Á là trung tâm trong cuộc khủng hoảng toàn cầu này. Vấn đề đầu tiên tại khu vực này chủ yếu là do thiếu một thị trường cao cấp, mở cửa cho thương mại khu vực về các mặt hàng thực phẩm và truy xuất nguồn gốc những mặt hàng có hại. Về cơ bản, giá tăng tùy thuộc mối quan tâm về các sản phẩm NTTS, yêu cầu của thị trường như các tiêu chuẩn ATTP và truy xuất nguồn gốc. Điều này gây trở ngại nghiêm trọng đối với thương mại, trừ những nông dân nuôi trồng quy mô từ chuỗi thị trường.
Khoảng 80% trang trại NTTS ở châu Á hoạt động ở quy mô nhỏ, thường khó tiếp cận về kỹ thuật, tài chính, sản lượng dễ sụt giảm do dịch bệnh. Do đó, ngành NTTS ở châu Á thường quan tâm đến những tác động về môi trường, xã hội. Các yếu tố chính cản trở sự bền vững hoặc tăng trưởng của các nhà sản xuất quy mô nhỏ chính là gia tăng thương mại, những vấn đề liên quan đến thị trường; bùng nổ bệnh dịch; tiếp cận thị trường và thông tin thị trường không được công bằng; những khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ kỹ thuật và tài chính; chi phí cao hơn liên quan đến sản xuất thị trường quyết định, ATTP, đảm bảo chất lượng, yêu cầu chứng nhận bền vững. Những người sản xuất quy mô nhỏ sẽ không thể cạnh tranh vì phải cố gắng để đáp ứng những yêu cầu truy xuất nguồn gốc và kỹ thuật sản xuất bền vững.
Người mua và thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy NTTS có trách nhiệm. Kết quả là việc mua sản phẩm đạt chứng nhận có tăng lên đối với những người mua thủy hải sản khi hơn 80% trong số họ đã thực hiện vài cam kết công khai hướng tới tính bền vững dựa trên áp dụng hệ thống chứng nhận. Tuy nhiên, điều này chỉ có khả năng bù đắp một phần hạn chế của thị trường thủy sản trong khoảng thời gian ngắn và trung hạn. Điều này khiến cho đại đa số các nhà sản xuất không bị ảnh hưởng và cần có một công cụ ở cấp tạm thời cho phép các nhà sản xuất quy mô nhỏ bắt đầu leo lên các nấc thang tiến tới sản xuất bền vững hơn.
Một vài người cho rằng, tiêu chuẩn GAP ở cấp độ quốc gia hiện nay nên đảm nhiệm vai trò này, tuy nhiên trên thực tế có sự khác biệt lớn trong cách mà họ định nghĩa và giải quyết những vấn đề bền vững về môi trường, xã hội. Điều này ngăn cản người mua sử dụng các tiêu chuẩn này, đặc biệt là những người có cam kết phát triển bền vững công khai.