Huyện Quang Bình có trên 700 ha diện tích mặt nước, gồm: Ao, hồ, sông, suối, thủy lợi, thủy điện,… vì vậy rất thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản (NTTS).
Để khai thác tiềm năng đó, những năm qua, nhân dân trong huyện đã đẩy mạnh phát triển NTTS; nhiều gia đình đã mạnh dạn mở rộng diện tích mặt nước để NTTS. Tuy nhiên, việc NTTS cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nhỏ lẻ, chưa quy mô; các hộ dân chủ yếu chỉ nuôi ở ao, ruộng lúa mang tính tự cung, tự cấp nhằm cải thiện đời sống; vì vậy chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Để phát huy lợi thế, tiềm năng diện tích mặt nước hiện có; đặc biệt, từ khi nhà máy Thủy điện Sông Chừng đi vào hoạt động đã tạo thành hồ chứa nước nhân tạo lớn, với tổng diện tích mặt nước lòng hồ trên 225,32 ha, chiều dài gần 15 km, dung tích chứa nước trên 45 triệu m3. Với điều kiện như vậy, rất phù hợp với việc phát triển nghề NTTS… Qua tìm hiểu nghề nuôi cá lồng tại các eo, ngách đã được nhiều địa phương trong cả nước triển khai nuôi trồng trên sông và các hồ chứa thủy lợi, thủy điện… đã đem lại hiệu quả kinh tế nhất định, góp phần từng bước phát triển ngành nghề NTTS; giải quyết được nhu cầu việc làm và tăng thu nhập cho các hộ. UBND huyện Quang Bình cùng các ngành chức năng đã tổ chức đi tham quan, khảo sát tại lòng hồ Thủy điện Na Hang (Tuyên Quang); hồ Thủy điện Thác Bà (Yên Bái) và hồ Ba Bể (Bắc Cạn)… cho thấy, việc nuôi cá lồng trên lòng hồ rất thuận lợi và phát triển do tận dụng nguồn nước và thức ăn tự nhiên, cá phát triển tốt, không mắc nhiều bệnh và cho năng suất, hiệu quả cao; hàng năm cung cấp ra thị trường hàng trăm tấn cá thương phẩm. Sau chuyến đi khảo sát đó, UBND huyện Quang Bình đã có chủ trương phát triển nghề nuôi cá lồng trên lòng hồ Thủy điện Sông Chừng. Năm 2013, huyện đã hỗ trợ một số hộ dân ở xã Tân Nam triển khai nuôi cá lồng tại lòng hồ Thủy điện Sông Chừng; qua đánh giá thực tế cho thấy, việc nuôi cá lồng ở đây rất phù hợp và đạt hiệu quả kinh tế cao, bước đầu mở ra hướng đi mới về phát triển nghề NTTS cho huyện Quang Bình.
Nhà bè nuôi cá lồng tại lòng hồ Thủy điện Sông Chừng được thiết kế quy mô hiện đại nhằm phát triển nghề NTTS lâu dài, bền vững.
Để mở rộng quy mô nuôi cá lồng phát triển kinh tế; năm 2014, UBND huyện Quang Bình phối hợp với Sở KHCN xây dựng Dự án “Ứng dụng KHKT nuôi cá lồng quy mô tập trung, kết hợp nuôi vịt bầu địa phương tại các eo, ngách trên lòng hồ Thủy điện Sông Chừng”. Với quy mô thiết kế xây dựng nhà bè để nuôi, với diện tích 432 m2; bố trí 20 lồng nuôi chia thành 2 khu bè, với tổng kích thước lồng nuôi 675 m3 bè nuôi cá; diện tích nhà điều hành bố trí giữa hai khu bè với 60,75 m2; thiết kế xây dựng mô hình nuôi cá tại các eo, ngách quy mô 1 đến 2ha, kết hợp nuôi 1.000 con vịt bầu giống địa phương. Dự kiến một năm thu 6 tấn cá thương phẩm các loại, 1 tấn vịt bầu bắt đầu sinh sản.
Tìm hiểu vấn đề trên chúng tôi được đồng chí Nguyễn Tiến Dũng, Chủ tịch UBND huyện; Chủ nhiệm Dự án cho biết: Sau khi hoàn thiện các công đoạn về lắp ghép nhà bè, nhà điều hành, lồng nuôi, chúng tôi tiến hành thả cá; tháng 8 và tháng 9/2014 đã thả trên 7.500 con Trắm cỏ giống/6 lồng, trọng lượng trung bình từ 40 – 50 g/con; trên 9.500 con giống cá Chép lai/6 lồng, trọng lượng trung bình từ 80 – 100 g/con. Đến tháng 3.2015, tiếp tục thả trên 14.500 con giống cá Rô phi đơn tính/8 lồng, trọng lượng trung bình 100 – 120 con/kg. Hầu hết các loại cá giống được thả cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng con giống, hiện nay cá đang sinh trưởng và phát triển tốt, không có dấu hiện dịch bệnh. Tuy nhiên có chết một vài trăm con, trong đó có Trắm cỏ, cá Chép lai, cá Rô phi, nguyên nhân do lúc đánh bắt, vận chuyển cá giống chưa cẩn thận, hoặc do thay đổi môi trường sống từ vùng này sang vùng kia…
Đưa chúng tôi đi thăm mô hình nuôi cá lồng trên lòng hồ Thủy điện Sông Chừng, anh Đỗ Diên Hiếu, Thư ký của Dự án cho biết: Để hạn chế sự thất thoát thức ăn và giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước chúng tôi sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi không tan trong nước, loại thức ăn công nghiệp hoặc thức ăn chế biến đều có hàm lượng đạm từ 18 – 30%. Hầu hết thức ăn chế biến được làm từ các nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương như: Cám gạo, bột ngô, sắn… để phối chế thành thức ăn cho cá. Các nguyên liệu được tính toán hợp lý để bảo đảm hàm lượng dinh dưỡng, quan trọng nhất là đạm theo nhu cầu của cá. Do thực hiện đúng quy trình cho ăn nên hiện nay cá các loại ở các lồng đều phát triển tốt, từ lúc thả đến nay được 8 – 9 tháng bình quân mỗi con nặng khoảng 3 – 5 lạng, có con 7 – 8 lạng…
Có thể nói, việc triển khai thực hiện dự án nuôi cá lồng là một mô hình điểm về quy trình kỹ thuật, sau khi dự án kết thúc huyện sẽ chuyển giao tiến bộ KHKT của mô hình này cho Tổ hợp tác NTTS của huyện tiếp quản và nhân rộng trong thời gian tiếp theo. Đồng thời trên cơ sở kết quả đánh giá tổng kết Dự án, đơn vị chủ trì thực hiện sẽ tham mưu cho huyện có cơ chế chính sách hỗ trợ để mở rộng Dự án ra diện rộng, đảm bảo việc phát triển nuôi cá lồng, kết hợp với nuôi vịt bầu thương phẩm trên lòng hồ cho tất cả các hộ trên địa bàn, nhằm từng bước phát triển mạnh nghề thủy sản trên địa bàn huyện.