(TSVN) – Hải sâm cát – loài thủy sản được ví như “nhân sâm của biển” đang trở thành đối tượng nuôi mới, thân thiện môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt cho người dân ven biển khu vực phía Đông tỉnh tỉnh Đắk Lắk.
Đối tượng nuôi giàu tiềm năng
Phía Đông tỉnh Đắk Lắk có đường bờ biển dài tới 189 km, nhiều nơi khúc khuỷu, vịnh – đầm xen kẽ như Vịnh Xuân Đài, Đầm Cù Mông, Đầm Ô Loan, Vịnh Vũng Rô, tạo nên vùng sinh thái biển phong phú với tổng diện tích mặt nước khoảng 18.865 ha. Đây được xem là “kho báu” tự nhiên thuận lợi cho phát triển ngành thủy sản cả về khai thác và nuôi trồng.
Những năm qua, nghề nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn tại khu vực này phát triển khá mạnh. Diện tích nuôi tăng từ hơn 2.600 ha (năm 2020) lên 2.670 ha (năm 2024), sản lượng đạt trên 18.000 tấn/năm, chủ yếu là tôm, cá biển và các loài có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, sự phát triển nóng cũng khiến môi trường nuôi bị ô nhiễm, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Nhiều ao đìa nuôi tôm thẻ chân trắng, ốc hương bị bỏ hoang do thua lỗ, khiến người dân thiếu vốn tái sản xuất.
Ảnh: Hải sâm cát. Nguồn: ST
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, việc đa dạng hóa đối tượng nuôi trở thành hướng đi tất yếu giúp người dân giảm rủi ro, ổn định sinh kế và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên. Chính từ yêu cầu ấy, mô hình nuôi hải sâm cát (Holothuria scabra) – loài động vật biển có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao – được đưa vào thử nghiệm và bước đầu cho thấy tín hiệu tích cực.
Hải sâm, còn gọi là đồn đột, là nhóm động vật biển thuộc lớp da gai (Holothuroidea). Từ lâu, hải sâm đã được coi là thực phẩm và dược liệu quý, chứa nhiều protein, axit amin thiết yếu, có tác dụng tăng cường sức khỏe, phục hồi thể lực. Trên thị trường quốc tế, nhu cầu hải sâm tăng mạnh, giá trị thương phẩm cao khiến nguồn hải sâm tự nhiên ở Việt Nam gần như cạn kiệt do khai thác quá mức.
Vì vậy, việc chủ động nhân giống và nuôi thương phẩm hải sâm cát không chỉ đáp ứng nhu cầu thị trường mà còn góp phần bảo tồn nguồn lợi sinh vật biển, hướng đến phát triển nghề nuôi bền vững.
Từ năm 2023, bằng nguồn vốn Khuyến nông Trung ương, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk (trước đây là Trung tâm Khuyến nông Phú Yên) triển khai Dự án “Xây dựng mô hình nuôi thương phẩm hải sâm cát tại các tỉnh ven biển miền Trung”. Điểm thực hiện đầu tiên là phường Sông Cầu, với quy mô 7,5 ha/15 hộ, kéo dài 3 năm (2023–2025).
Đến nay, diện tích nuôi hải sâm cát tại địa phương đã mở rộng lên khoảng 20 ha, và phần lớn hộ dân đều có kế hoạch tăng quy mô hoặc chuyển đổi từ ao nuôi tôm, cá bị bỏ hoang sang nuôi hải sâm.
Dễ thích ứng môi trường
Theo Trung tâm Khuyến nông Đắk Lắk, hải sâm cát là loài sống đáy, có khả năng chịu biến động nhiệt độ và độ mặn khá cao. Chúng thích nghi tốt trong điều kiện nhiệt độ 25–31°C và độ mặn 20–34‰, phù hợp với vùng ven biển miền Trung.
Đặc biệt, hải sâm có tập tính kiếm ăn thụ động, chủ yếu sử dụng mùn bã hữu cơ và tảo đáy có sẵn trong ao, không cần nguồn thức ăn công nghiệp. Chính nhờ đặc điểm này, hải sâm được ví như “máy lọc sinh học”, giúp làm sạch môi trường ao nuôi, giảm thiểu khí độc, ổn định hệ sinh thái đáy.
Quy trình nuôi cũng không quá phức tạp. Ao nuôi cần nền cát bùn xốp, độ sâu khoảng 1m, hệ thống cấp thoát nước thuận tiện. Con giống có thể được sản xuất nhân tạo, kích cỡ 2–3cm, thả với mật độ 2–4 con/m². Sau 8–10 tháng, hải sâm đạt trọng lượng 250–300g/con, có thể thu hoạch.
Hộ nuôi ở phường Sông Cầu, tỉnh Đắk Lắk thu hoạch hải sâm cát. Ảnh: Kim Sơ.
Kỹ thuật chăm sóc chủ yếu là duy trì môi trường ổn định, thay nước định kỳ, hạn chế rong phát triển quá mức và kiểm soát pH từ 7,5–8,5. Nhờ ăn mùn hữu cơ, hải sâm ít bị bệnh, gần như không sử dụng kháng sinh hay hóa chất, rất phù hợp xu hướng nông nghiệp xanh, nuôi trồng sinh thái.
Sau một vụ nuôi thử nghiệm, các hộ tham gia mô hình ở phường Sông Cầu cho biết, tỷ lệ sống của hải sâm đạt trên 80%, năng suất bình quân khoảng 4 tấn/ha, lợi nhuận đạt 130–180 triệu đồng/ha/vụ, tỷ suất lợi nhuận trên 50%.
Hải sâm cát thương phẩm hiện được Công ty Cổ phần Đầu tư Hải sâm Việt Nam bao tiêu với giá ổn định 200.000 đồng/kg, giúp người nuôi yên tâm sản xuất, không lo đầu ra.
Ngoài hiệu quả kinh tế, nuôi hải sâm còn mang lại lợi ích môi trường rõ rệt: làm sạch đáy ao, giảm khí độc, tái tạo nền đáy cho các vụ nuôi sau. Sau mỗi vụ hải sâm, người dân có thể luân canh nuôi tôm, cá hoặc nuôi ghép hải sâm với rong biển, cá đáy, vừa tận dụng nguồn thức ăn, vừa nâng cao thu nhập.
Thực tế cho thấy, mô hình nuôi hải sâm cát đang giúp người dân phục hồi lại các ao đìa bỏ hoang, khôi phục sinh kế, tạo việc làm ổn định cho hàng trăm lao động ven biển.
Từ kết quả bước đầu, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Đắk Lắk đánh giá: hải sâm cát là đối tượng nuôi đầy triển vọng, thích hợp với điều kiện vùng ven biển Đông của tỉnh, góp phần đa dạng hóa sản phẩm thủy sản, giảm áp lực môi trường và ổn định thu nhập cho người dân.
Giai đoạn 2026–2030, Trung tâm sẽ đưa nuôi thương phẩm hải sâm cát vào Chương trình Khuyến nông 5 năm của tỉnh, với mục tiêu nhân rộng các mô hình thân thiện môi trường, khuyến khích người dân chuyển đổi đối tượng nuôi tại những vùng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
Song song đó, địa phương cũng chú trọng duy trì chuỗi liên kết tiêu thụ giữa nông dân và doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra, hướng đến xây dựng chuỗi giá trị hải sâm cát bền vững – từ con giống, nuôi thương phẩm đến chế biến và xuất khẩu.
Thùy Khánh