(TSVN) – Vi tảo là loài thực vật phù du (Phytoplankoton) có kích thước nhỏ, sinh trưởng bằng quang tự dưỡng, dị dưỡng hoặc cả hai cách. Nhiều loài vi tảo đã được nuôi trồng để tạo nguồn thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón hữu cơ. Ngoài ra, vi tảo còn được chiết xuất để tạo ra những hợp chất có giá trị cao (các sắc tố tự nhiên, chất chống ôxy hóa, protein, lipid, vitamin và vi khoáng…) sử dụng trong dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm bổ sung.
Thông tin tại Hội thảo “Công nghệ nuôi trồng vi tảo cố định trên hệ thống Twin – Layer và ứng dụng sản xuất thực phẩm chức năng” do Sở Khoa học Công nghệ TP Hồ Chí Minh tổ chức vừa qua; PGS.TS Trần Hoàng Dũng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Ứng dụng và Chuyển giao Công nghệ (IRT), Trường Đại học Công thương TP Hồ Chí Minh đã giới thiệu chi tiết về “Công nghệ nuôi trồng vi tảo cố định trên hệ thống Twin – Layer và ứng dụng sản xuất thực phẩm chức năng”.
Cụ thể, theo quy trình công nghệ, vi tảo được cố định trên bề mặt vật liệu nuôi, mỗi phiến nuôi có diện tích khoảng 0,05 – 1 m², có thể kết hợp nhiều phiến thành từng module khi nuôi trồng quy mô lớn. Ở mô hình này, vi tảo tập trung hoàn toàn ở bề mặt nên hấp thụ ánh sáng mặt trời tốt nhất. Vì vi tảo được cố định trên bề mặt nên dễ dàng thu hoạch bằng những phương pháp đơn giản không cần ly tâm hay kết tủa giúp giảm chi phí và nhân công khi mở rộng quy mô nuôi trồng. Nhiều loài vi tảo đã được nuôi trồng để tạo nguồn thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón hữu cơ… Công nghệ nuôi cấy vi tảo cố định
trên màng cơ chất xốp cố định phương nghiêng là một đột phá mang tính đổi mới và tiềm năng trong việc tăng cường hiệu suất nuôi trồng vi tảo và bảo vệ môi trường. Với sự sáng tạo và tính toàn diện, phương pháp này có thể định hình lại ngành công nghiệp vi tảo và góp phần vào việc giải quyết các thách thức toàn cầu về nguồn tài nguyên và môi trường.
Cũng theo PGS.TS Trần Hoàng Dũng, trong nhiều năm qua nhóm tác giả của IRT từ những thành tựu trước đó, đã tập trung nghiên cứu, ứng dụng và dần hoàn thiện nhiều hệ thống nuôi trồng vi tảo khác nhau. Cụ thể có thể kể đến như, hệ thống thiết bị nuôi vi tảo trên hệ thống quang sinh học hai lớp màng quy mô nhỏ theo phương ngang (hệ thống nhỏ). Khi tiến hành tuyển chọn khả năng tăng trưởng và sinh astaxanthin từ các chủng tảo CCAC 0125, CCAP 34/13, NIES 144 và HB cho thấy các chủng đều sinh trưởng khá cao và khả năng tích lũy astaxanthin khi gặp điều kiện bất lợi tương đối lớn. Trong đó, chủng CCAP 34/13 cho khả năng tích lũy astaxanthin cao nhất, có thể đảm bảo cho quá trình sản xuất và thu nhận astaxanthin trên quy mô lớn. Qua đó, tối ưu hóa quá trình nuôi cấy chủng H. pluvialis có năng suất cao chọn được trên hệ thống nhỏ theo phương ngang, xác định được một số điều kiện nuôi trên hệ thống nhỏ: bổ sung CO2 1,0% vào môi trường dinh dưỡng và cường độ chiếu sáng 470 – 790 μmol photon m-2 s-1 là phù hợp nhất để đạt mức tăng sinh khối khô là 4,92 g/ngày/m² với tỷ lệ astaxanthin chiếm 1,53% sinh khối khô.
Nguồn: CESTI