(TSVN) – Nhờ mô hình nuôi cá tra cộng đồng, làng Patin ở tỉnh Riau (Indonesia) đã trở thành biểu tượng thịnh vượng: tạo việc làm trên toàn chuỗi giá trị, tăng thu nhập gấp đôi mức tối thiểu quốc gia và chứng minh rằng nuôi cá có thể giúp thoát nghèo bền vững.
Ba thập kỷ trước, sau khi bị di dời để nhường đất cho dự án thủy điện, cư dân Koto Mesjid, huyện XIII Koto Kampar (Riau) gần như rơi vào cảnh trắng tay. Tiền đền bù nhanh chóng cạn kiệt, đồn điền cao su thất bại, và cái nghèo cận kề. Bước ngoặt chỉ đến vào đầu những năm 2000, khi họ được hướng dẫn nuôi cá nước ngọt, và lựa chọn cá tra đã thay đổi số phận cả cộng đồng.
Người tiên phong là ông Suhaimi, khi ấy là cán bộ kỹ thuật của Cơ quan Công nghệ Nông nghiệp địa phương (BPTP). Nhận thấy điều kiện tự nhiên thuận lợi, ông tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm nhiều loài thủy sản khác nhau trước khi chọn cá tra, một loài dễ nuôi, chi phí thấp, thị trường ổn định và thích hợp với vùng đất sét pha cát giữ nước tốt. Suhaimi sau đó bỏ việc nhà nước để tập trung làm nông dân toàn thời gian, đồng thời vận động cả làng cùng tham gia.
“Từ chỗ chỉ có một người nuôi, giờ cả làng đều có ao cá. Sản lượng đạt 15 tấn mỗi ngày trên 160 ha mặt nước. Nhờ vậy, đời sống được cải thiện, con cái học hành tốt hơn, và sự thịnh vượng được chia sẻ công bằng,” ông nói. Nhận thấy tiềm năng lớn, Suhaimi từ bỏ công việc nhà nước, về hẳn quê khởi nghiệp với cá. Ban đầu ông chỉ có một ao nhỏ, nhưng nay, toàn bộ 700 hộ dân trong làng, có tới 600 hộ tham gia chuỗi giá trị cá tra từ ươm giống, nuôi thương phẩm đến chế biến, buôn bán. “Giờ đây, không nhà nào thiếu ao cá,” Suhaimi nói vui, nhắc đến câu cửa miệng của dân làng.
Hiện Kampung Patin (Làng cá tra) sở hữu 160 hecta ao nuôi, sản xuất từ 5.000-6.000 tấn cá mỗi năm, tương đương sản lượng của nhiều trang trại quy mô công nghiệp. Nhờ đó, thu nhập trung bình mỗi hộ đạt 7-10 triệu rupiah/tháng, gấp đôi mức lương tối thiểu của Indonesia.
Khởi đầu khó khăn, nhưng làng cá đã vượt qua nhờ 3 yếu tố: nguồn nước ngầm sạch ở độ sâu 90 m, chủ động sản xuất giống và tự chế biến thức ăn. Ban đầu, cá giống phải nhập từ đảo Java, vừa đắt vừa hao hụt. Để khắc phục, Suhaimi lập trại giống riêng, mua cá bố mẹ chất lượng từ trung tâm nhà nước và đầu tư công nghệ ấp nở. Đến nay, làng có tám trại giống, sản xuất 3,5 triệu cá bột mỗi tháng, đủ cung cấp cho toàn vùng.
Vấn đề lớn nhất là giá thức ăn chiếm tới 85% chi phí. Thay vì phụ thuộc vào cám công nghiệp, người dân tự phối trộn nguyên liệu địa phương như cám gạo, cá tạp, bã hạt cọ. Dù tốc độ tăng trưởng chậm hơn, nhưng chi phí chỉ khoảng 5.600 rupiah/kg, rẻ bằng nửa so với thức ăn thương mại. Tính ra, chi phí sản xuất chỉ 12.000 rupiah/kg, trong khi bán ra được 18.500 rupiah, nhờ đó lợi nhuận cao hơn đáng kể.
Không chỉ tiết kiệm, việc tự sản xuất thức ăn còn tạo thêm việc làm và giữ dòng tiền trong làng. “Chúng tôi có 38 cơ sở chế biến cám, sản xuất 35040 tấn mỗi ngày”, Suhaimi chia sẻ.
Khi nhận ra giá bán cá tươi bị ép tại chợ truyền thống, người dân chuyển sang chế biến. Hiện khoảng 80% sản lượng cá được hun khói, phần còn lại tiêu thụ trong và ngoài địa phương. “Ngành cá tra hun khói xử lý khoảng 12 tấn cá mỗi ngày,” Suhaimi cho biết. Với tỷ lệ thu hồi 28-30%, cá hun khói được bán tới 75.000 rupiah/kg, mang lại giá trị gia tăng lớn.
Nhờ thành công này, làng Patin trở thành điểm du lịch – giáo dục thu hút sinh viên, nông dân và chuyên gia trong, ngoài nước đến học tập.
Với Suhaimi, thành công của Làng Patin chứng minh rằng chìa khóa của phát triển bền vững nằm ở việc chọn loài nuôi phù hợp, công nghệ dễ áp dụng, thị trường ổn định, và quan trọng nhất là tinh thần cộng đồng cùng người dẫn đường có tâm.
“Chúng tôi không có kế hoạch mở rộng quy mô lớn. Điều quan trọng là giữ vững những gì đã có, tiếp tục cải thiện và sẵn sàng hợp tác với bất kỳ sáng kiến nào giúp làng ngày càng phát triển hơn,” ông Suhaimi nói, nụ cười ánh lên niềm tự hào của một cộng đồng từng vực dậy từ con nước.
Vũ Đức
Theo Thefishsite