(TSVN) – Cá ngừ đại dương là đối tượng khai thác chính của nghề khai thác hải sản xa bờ và cũng là một trong ngành hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam. Nhằm phát huy thế mạnh này, thời gian qua, các địa phương trên đã triển khai có hiệu quả mô hình chuỗi liên kết trong khai thác và tiêu thụ cá ngừ đại dương, giúp nâng cao chất lượng và giá bán từ đó mang lại thu nhập ổn định hơn cho các ngư dân.
Nghề khai thác cá ngừ đại dương du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu thập kỷ 90, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Duyên hải miền Trung với 3 đối tượng khai thác chính gồm cá ngừ vằn hay cá ngừ sọc dưa, cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to. Sau gần hai thập kỷ, với nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Chính phủ (như Nghị định 66/2005/NĐ-CP; Nghị quyết 48/NQ-CP; Nghị định 67/2014/NĐ-CP…), khai thác và xuất khẩu cá ngừ đại dương đã có sự tăng trưởng mạnh. Các sản phẩm cá ngừ Việt Nam hiện đã được xuất khẩu tới trên 200 thị trường trên phạm vi toàn cầu. Như trong năm 2021, xuất khẩu cá ngừ đã lội ngược dòng ngoạn mục trong những tháng cuối năm, đưa tổng giá trị xuất khẩu cả năm lên hơn 759 triệu USD, tăng 17% so năm 2020.
Theo kết quả từ đề tài “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị cá ngừ đại dương khai thác ở vùng biển miền Trung” của Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản cho thấy, ngành hàng cá ngừ hiện nay có 2 dạng chuỗi, bao gồm 3 mắt xích chính: Khâu sản xuất sơ cấp, bao gồm ngư dân/tổ đội khai thác cá ngừ đại dương; khâu trung gian là các nậu vựa thu mua cá ngừ cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu; doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá ngừ. Trong đó, nậu vựa đóng vai trò quan trọng trong chuỗi với mối liên hệ chặt chẽ với cả ngư dân và doanh nghiệp khi thu mua đến 80% lượng cá ngừ đại dương khai thác. Doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trực tiếp thu mua 20% lượng cá ngừ đại dương khai thác tại cảng để xuất tươi đi các thị trường nước ngoài.
Toàn tỉnh Khánh Hòa có hơn 3.400 tàu đánh bắt xa bờ, trong đó hơn 700 tàu chuyên câu cá ngừ đại dương. Hiện địa phương đang triển khai 3 mô hình “Chuỗi liên kết khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ”; gồm: Công ty TNHH Thịnh Hưng và Tổ hợp tác nghề cá Phước Đồng với 120 tàu; Công ty TNHH Tín Thịnh và Tổ hợp tác nghề cá Vĩnh Phước với 25 tàu; Công ty TNHH T&H Nha Trang và Tổ hợp tác nghề cá Trường Sa với 7 tàu tham gia. Ngoài ra, còn có hệ thống thu mua cá trực tiếp trên biển tàu mẹ – tàu con của Công ty TNHH Hải Vương.
Ông Võ Khắc Én, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Khánh Hòa cho biết, ngư dân được các doanh nghiệp hướng dẫn việc sơ chế cá ngừ, bảo quản theo đúng tiêu chuẩn. Khi cá ngừ đánh bắt lên được đánh số, ghi tọa độ khai thác… để bảo đảm IUU. Nhờ vậy, cá về bờ bảo đảm chất lượng cao, tính pháp lý khi xuất khẩu, tiết kiệm chi phí nên giá cá tăng, ngư dân có thêm lợi nhuận.
Cá ngừ đại dương cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản tỉnh Bình Ðịnh; vì vậy, địa phương này đã không ngừng đưa ra giải pháp nhằm giúp ngư dân an tâm bám biển đánh bắt. Toàn tỉnh Bình Định hiện có hơn 3.200 tàu cá đánh bắt xa bờ, trong đó gần một nửa hành nghề câu cá ngừ đại dương với sản lượng khai thác khoảng 11.000 tấn/năm. Chất lượng sản phẩm đánh bắt liên tục tăng nhưng không có đầu ra ổn định nên hầu hết ngư dân bán cá ngừ đại dương cho đầu nậu với giá bấp bênh. Vì vậy, năm 2021, Sở NN&PTNT Bình Định phối hợp Công ty TNHH Thực phẩm Mãi Tín (doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản) xây dựng dự án “Chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ cá ngừ đại dương Bình Định”. Mục tiêu của dự án nhằm tiến tới xây dựng chuỗi liên kết bền vững, sản phẩm cá ngừ đại dương có đầu ra ổn định, giá bán cao. Ngoài việc tăng thu nhập cho ngư dân, dự án còn hướng đến nâng giá trị nhãn hiệu “Cá ngừ đại dương Bình Định”, tạo nguồn nguyên liệu chất lượng ổn định, đáp ứng nhu cầu chế biến, xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngư dân của 30 tàu câu cá ngừ đại dương tham gia dự án được tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hỗ trợ kinh phí đầu tư máy móc, thiết bị khai thác, bảo quản sản phẩm theo công nghệ Nhật Bản. Doanh nghiệp sẽ mua toàn bộ sản phẩm cá ngừ đại dương theo hợp đồng ký kết với giá cao hơn giá thị trường. Ông Trần Văn Phúc, Giám đốc Sở NN&PTNT Bình Định cho biết trước đây, cá ngừ đại dương xuất khẩu sang Nhật Bản bằng đường hàng không nên chi phí vận chuyển quá cao. Nay sản phẩm của Công ty TNHH Thực phẩm Mãi Tín được chế biến dạng fillet cấp đông nhanh và xuất khẩu bằng đường biển nên chất lượng được bảo đảm và hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả khai thác thì nhất thiết phải nâng cao vai trò của khoa học công nghệ; cách làm này đã được các địa phương nhất là tại tỉnh Phú Yên áp dụng rất có hiệu quả. Theo đại diện Sở NN&PTNT Phú Yên, đơn vị đã giao Trung tâm Khuyến nông và Chi cục Thủy sản tuyên truyền, vận động ngư dân trong tỉnh trang bị, sử dụng các trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho khai thác và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Hiện, nhiều tàu câu cá ngừ đại dương ở Phú Yên đã trang bị hệ thống đèn led chiếu sáng, sử dụng dụng cụ làm choáng cá trước khi bắt lên tàu nhằm tăng chất lượng cá khai thác được, sử dụng con mực giả do Nhật Bản sản xuất để làm mồi câu, giúp chủ động hơn trong việc giải quyết tìm mồi câu khi hoạt động trên biển. Ngoài ra, một số tàu lưới vây cũng đã sử dụng đèn led, trang bị máy dò quét, máy dò chụp 360 độ (là loại máy dò hiện đại phát hiện cá từ mọi hướng và truy bám tự động).
Tại tỉnh Khánh Hòa, TS Nguyễn Trọng Lương, Phó Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản, Trường ĐH Nha Trang, đã nghiên cứu để nâng cao giá trị của cá ngừ đại dương. Theo ông, công nghệ câu sử dụng máy tạo xung điện sẽ làm cá ngất, không còn giãy giụa và kéo cá lên tàu. Bên cạnh đó, kết hợp với xả máu và xử lý đúng quy trình sẽ giúp hạ thân nhiệt của cá nhanh, ngoài ra xả máu cũng giúp giảm sự tích tụ axit lactic, hạn chế quá trình ươn thối cá. Do việc bảo quản bằng đá, bằng hầm lạnh thường tiêu hao đá, làm giảm chất lượng cá nên công nghệ tiên tiến nhất hiện nay mà ngư dân cần áp dụng là công nghệ phun PU Foam. Hầm bảo quản sẽ bọc bằng PU Foam, kết hợp với bảo quản cá bằng đá bùn (đá bào) sẽ đưa thời gian bảo quản tăng lên hơn 20 ngày và khả năng hút nước thấp hơn 3% giúp chất lượng thành phẩm vẫn đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu.
Ngọc Hân