(TSVN) – Nhờ tính thích nghi cao, ít dịch bệnh, điều kiện nuôi đơn giản nên từ chỗ chỉ là một “kép phụ” trong cơ cấu cây trồng, vật nuôi của nông dân ĐBSCL, con tôm càng xanh từng bước chứng tỏ vai trò, vị thế của mình khi trở thành một trong những nguồn thu nhập đáng kể của người dân nơi đây. Và theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, tiềm năng nuôi tôm càng xanh ở ĐBSCL là rất lớn, tập trung chủ yếu tại vùng nước lợ của 3 tỉnh, thành phố, gồm: Cần Thơ, An Giang và Cà Mau.
Tháng 11/2024, chúng tôi có dịp về huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang (cũ) để xem người dân nơi đây thu hoạch tôm càng xanh được nuôi xen canh trên ruộng lúa. Vốn là người quen cũ, nên khi gặp chúng tôi, ông Trần Tập, ở xã Thạnh yên, đã vội vã khoe: “Năm nay tôm càng trúng lắm. Vừa trúng mùa lại trúng giá nữa!”. Nhìn đống tôm càng xanh bị ngộp bùn nằm san sát nhau cặp theo mương bao chúng tôi đã phần nào hiểu được niềm vui của ông Tập.
“Tôm năm nay có giá lắm. Loại 20 con/kg thôi cũng đã bán được 120.000 – 130.000 đồng/kg, còn loại 10 – 12 con/kg thì giá lên đến 150.000 – 180.000 đồng/kg”. Tiếng ông Tập lại vang lên bên tai chúng tôi như muốn át cả tiếng máy sụt bùn dưới mương bao.
Mặc dù tôm càng xanh vốn là đối tượng thủy sản thuộc vùng ngọt, nhưng khi được đưa về nuôi ở vùng nước lợ ven biển ĐBSCL, tôm lại phát triển tốt hơn, cho chất lượng ngon hơn hẳn so với vùng ngọt. Các kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II và Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ cho thấy, ở độ mặn 5‰, 10‰, 15‰, tôm càng xanh phát triển tốt hơn và có chất lượng ngon hơn so với ở độ mặn 0‰.
Thông thường, nếu thả nuôi tôm càng xanh toàn đực trên diện tích 1 ha, người nuôi có thể thu lợi nhuận trên 100 – 150 triệu đồng sau mỗi vụ nuôi là chuyện bình thường, nên đây cũng được xem là đối tượng nuôi có nhiều triển vọng cho ĐBSCL trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, xâm nhập mặn ngày sâu vào nội đồng.
Theo báo cáo của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, ở ĐBSCL, tôm càng xanh được nuôi nhiều ở 3 tỉnh, thành phố (mới), gồm: Cần Thơ, An Giang và Cà Mau, chủ yếu là nuôi xen canh với vụ lúa được trồng sau khi thu hoạch vụ tôm nước lợ. Thời gian sinh trưởng của tôm càng xanh khá dài, từ khoảng 5 – 6 tháng mới đạt trọng lượng thương phẩm (10 – 30 con/kg), nên từ nửa đầu tháng 6 (âm lịch), nông dân đã bắt giống về ương đến khi cây lúa bám rễ chắc trên đồng thì tiến hành đưa tôm càng xanh lên ruộng lúa để chúng tự tìm thức ăn. Cách nuôi này tuy năng suất không cao (khoảng 300 – 500 kg/ha) nhưng được lợi là không tốn chi phí thức ăn, nên chỉ cần nuôi đạt năng suất và tôm có giá là thu nhập của nhà nông sẽ rất cao.
Ước tính, trong tổng số khoảng 200.000 ha mô hình tôm (nước lợ) – lúa ở ĐBSCL, có hơn 100.000 ha được nông dân thả nuôi xen canh tôm càng xanh trong vụ lúa. Mô hình này tận dụng lợi thế của vùng đất lúa – tôm, kết hợp nuôi tôm càng xanh với trồng lúa, tạo ra nguồn thu nhập ổn định và bền vững. Theo đánh giá của ngành chuyên môn, việc nuôi xen canh tôm càng xanh trên ruộng lúa được xem là mô hình kinh tế hiệu quả, ổn định và bền vững, chưa kể đây cũng là một mô hình nuôi trồng thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay.
Tính ưu việt của phương thức canh tác này, cây lúa sẽ hạn chế độc tố cho môi trường nuôi tôm, giúp tôm sinh trưởng và phát triển tốt, hạn chế một phần dịch bệnh trên tôm. Thân và rễ lúa sau thu hoạch sẽ là nguồn thức ăn tự nhiên giúp tôm lớn nhanh. Ngược lại, sau mỗi vụ nuôi tôm, chất thải từ tôm bồi lắng sẽ tạo độ màu mỡ cho đất, giảm được lượng phân bón cho lúa, giảm thuốc bảo vệ thực vật nên không tác động tiêu cực đến môi trường xung quanh.
Bên cạnh yếu tố gia tăng lợi nhuận cho nhà nông, những năm gần đây, diện tích nuôi tôm càng xanh tại ĐBSCL tăng lên một phần là do có sự ràng buộc giữa doanh nghiệp bao tiêu lúa ST24, ST25 với nông dân.
Anh Huỳnh Chí Phương, Giám đốc Công ty Gạo Tôm, một doanh nghiệp chuyên hợp đồng bao tiêu các giống lúa ST, chia sẻ: “Một khi có con tôm càng xanh sống trên ruộng lúa, nông dân sẽ không dám sử dụng thuốc hóa học và hạn chế tối đa phân bón hóa học vì nếu không con tôm sẽ bị chết, nguồn thu lớn trong vụ lúa này sẽ bị mất. Đây là sự ràng buộc cần thiết vì nó mang loại lợi ích cho cả 2 bên”.
Không quá khó nuôi như con tôm sú, cũng không đòi hỏi nhiều yêu cầu quá cao như TTCT, con tôm càng xanh có thể sống khỏe ở cả vùng ngọt và vùng lợ. Chẳng những vậy, tôm càng xanh còn có thể nuôi luân canh, xen canh với cây lúa hoặc nuôi chuyên canh đều cho kết quả tốt. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, con tôm càng xanh vẫn chưa thể phát triển mạnh như con tôm sú hay TTCT ngay trên vựa tôm ĐBSCL.
Ông Huỳnh Quốc Khởi, nguyên Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Bạc Liêu (nay là tỉnh Cà Mau), cho biết: “Chúng tôi xác định con tôm càng xanh là một trong những đối tượng nuôi có hiệu quả cao khi được nuôi xen canh với cây lúa. Dù năng suất tôm càng xanh chưa cao, nhưng cũng đóng góp đáng kể vào lợi nhuận của nông dân so với chỉ đơn thuần trồng lúa, nên diện tích nuôi tôm càng xanh những năm gần đây ở Bạc Liêu nói riêng và vùng tôm – lúa ĐBSCL nói chung bắt đầu tăng lên”.
Với tính hiệu quả và điều kiện nuôi thuận lợi, nghề nuôi tôm càng xanh ở ĐBSCL đã có sự phát triển đáng kể. Không chỉ được tiêu thụ trong nước, theo tìm hiểu của phóng viên Đặc san Con Tôm, gần đây, tôm càng xanh còn được xuất khẩu sang một số nước, nên người nuôi cũng an tâm hơn. Tuy nhiên, theo chia sẻ của nhà nông, một trong những trở ngại lớn nhất cho sự phát triển của các mô hình nuôi tôm càng xanh đó là tỷ lệ sống của tôm nuôi còn thấp, trung bình chỉ khoảng 50%.
Mặt khác, do phần lớn là nuôi xen canh trong vụ lúa nên thời điểm thu hoạch thường khá đồng loạt, khiến giá tôm không ổn định. Chính từ những khó khăn trên, nên diện tích, sản lượng tôm càng xanh ở ĐBSCL đến nay vẫn còn thấp so với một số đối tượng nuôi khác, dù điều kiện nuôi là khá thuận lợi.
Theo đánh giá của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, tiềm năng phát triển nuôi tôm càng xanh của Việt Nam rất lớn, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành ĐBSCL nhờ các lợi thế: tính thích nghi cao, ít dịch bệnh, chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không quá khó và mang lại hiệu quả cao gấp 3 – 5 lần so với chỉ độc canh cây lúa. Do đó, để phát huy tiềm năng, cần rà soát quy hoạch và đầu tư cải thiện hạ tầng vùng nuôi tập trung chủ lực tại vùng tôm – lúa ĐBSCL, sản xuất giống đảm bảo chất lượng và số lượng.
Từng địa phương lựa chọn mô hình phù hợp, hướng dẫn kỹ thuật nuôi cho người dân để đảm bảo năng suất, chất lượng sản phẩm gắn với phát triển thị trường xuất khẩu cho con tôm càng xanh. Ðồng thời, có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng và giữa người nuôi với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu để cân đối cung – cầu, đảm bảo có sản lượng tôm quanh năm và đạt các tiêu chuẩn, chất lượng xuất khẩu.
An Xuyên