(TSVN) – Từ một phụ phế phẩm của ngành chế biến thực phẩm, khoai lang đã được tận dụng để tạo ra thành phần thức ăn thủy sản giàu đạm tại Philippines. Rẻ hơn bột cá và đậu tương, khoai lang được kỳ vọng góp phần giải quyết thách thức phát triển bền vững cho ngành NTTS.
Sản phẩm sinh khối khoai lang lên men có tên gọi ProEnk, chứa 20% sinh khối phụ phẩm khoai lang, do Công ty Plentex Philippines Inc, Đại học Visayas, Đại học Nông nghiệp Tarlac kết hợp sản xuất bằng quy trình cải tiến. Nhóm chuyên gia này đã sử dụng một hỗn hợp vi sinh độc quyền có khả năng biến đổi các phụ phế phẩm nông nghiệp giàu carbohydrate thành sinh khối protein không thua kém khô đậu về hàm lượng protein mà lại loại bỏ được axit béo omega-6.
Để khẳng định giá trị dinh dưỡng của ProEnk với các vật nuôi thủy sản, nhóm chuyên gia đã tiến hành nhiều thử nghiệm cho ăn trên TTCT, cá măng và cá rô phi. Ở thử nghiệm trên TTCT, các khẩu phần ăn được xây dựng theo cơ chế tăng tỷ lệ bổ sung khô đậu (0 – 100%) theo công thức isonitrogenous và isocaloric. Ở thử nghiệm với cá măng và cá rô phi, các khẩu phần công thức chứa ProEnK tăng dần, cùng đó giảm dần bột cá và khô đậu, từ đó xác định lượng bổ sung ProEnk tối đa trong khẩu phần ăn của các loại cá vây.
Các kết quả thử nghiệm trên TTCT chỉ ra rằng, ProEnk có thể thay thế hoàn toàn khô dậu trong các khẩu phần ăn của tôm mà không ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng tổng thể. Hơn nữa, các kết quả này cũng khẳng, định dù có thay thế 50% khô đậu, thì tăng trưởng và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) của tôm vẫn được cải thiện (Hình 1). Ngoài ra, hàm lượng axit béo omega-3 trong thịt tôm ăn bổ sung ProEnk cũng cao hơn hẳn nhóm đối chứng. Tăng trưởng và thành phần axit béo trong thịt tôm được cải thiện cũng nhờ lượng virus Vibrio trong nhóm tôm ăn bổ sung ProEnk thấp hơn khi thay thế 50% khô đậu bằng ProEnk. Điều này chứng tỏ, ProEnk đã kích thích hoạt tính miễn dịch đường ruột. Thành phần thức ăn này chứa hàm lượng tốt các axit béo chuỗi ngắn và trung bình vốn đóng vai trò kích hoạt đáp ứng miễn dịch đường ruột và kháng khuẩn mạnh mẽ.
Hình 1
Thử nghiệm trên cá măng cũng cho các kết quả tương tự. Đáp ứng tăng trưởng và hiệu quả biến đổi thức ăn trong nhóm ăn bổ sung ProEnk được cải thiện rõ rệt, và đạt hiệu quả tốt nhất ở nhóm ăn bổ sung ProEnk nhiều nhất (Hình 2). Điều này chỉ ra, ProEnk có thể được kết hợp với tỷ lệ tới 50% trong khẩu phần ăn và vẫn duy trì tăng trưởng tốt hơn. Đáng lưu ý, tỷ lệ bổ sung ProEnk đã giúp cải thiện thành phần axit béo trong cá măng. Khẩu phần thử nghiệm chứa ProEnk như một nguồn protein duy nhất đã tăng gấp đôi tỷ lệ axit béo omega-3/omega-6 trong thịt cá.
Hình 2
Các thử nghiệm trên cá rô phi và cá măng tương tự về chỉ số tăng trưởng. Thành phần axit béo trong các khẩu phần ăn chứa ProEnk cũng được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ axit béo omega-3/omega-6 tăng gần gấp 3 lần trong các khẩu phần chứa ProEnk cao nhất (Hình 3). Điều này khẳng định, ProEnk cải thiện thành phần axit béo trong cá rô phi nuôi.
Hình 3
Các dữ liệu đã chứng tỏ tiềm năng của ProEnk với vai trò trò là thành phần thức ăn cho tôm, cá rô phi và cá măng. Các phát hiện cũng khẳng định trong số các vật nuôi này, tỷ lệ bổ sung của ProEnk cũng tác động tới tỷ lệ Omega-3/Omega-6 – dấu ấn sinh học đặc biệt quan trọng đối với viêm nhiễm. Vật nuôi ăn bổ sung ProEnk có tỷ lệ axit béo Omega-3/Omega-6 tốt hơn, chứng tỏ axit Omega-6 tổng hợp cũng ít hơn.
Hàm lượng cao axit béo Omega-3 trong cá ăn bổ sung ProEnk khẳng định, thành phần thức ăn này thúc đẩy tổng hợp sinh học axit béo Omega-3 nhiều hơn Omega-6. Cả cá rô phi và cá măng đều tổng hợp sinh học axit béo chuỗi dài không bão hòa đa, EPA, DHA. Hiện, cơ chế và điều kiện tiềm năng tạo ra tổng hợp sinh học EPA và DHA trong cá rô phi và cá măng vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, các kết quả từ nghiên cứu trên đã chỉ ra, bổ sung 50% ProEnk trong khẩu phần có thể thúc đẩy tổng hợp sinh học EPA và DHA trong thịt cá rô phi và cá măng.
ProEnk có thể bổ sung vào khẩu phần của các rô phi, tôm và cá măng tới 50% trọng lượng mà không ảnh hưởng đến hiệu suất sinh học tổng thể và hiệu quả sử dụng thức ăn của các vật nuôi cùng một điểm cộng nữa là cải thiện thành phần axit béo. Phụ phẩm khoai lang bền vững, kinh tế và có thể làm giảm sử dụng bột cá hoặc khô dậu trong thức ăn thủy sản, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển ngành NTTS bền vững toàn cầu.
Rex Ferdinand Traifalgar
Khoa NTTS, Đại học Visayas, Philippines