Khuyến nông mở hướng mới cho nghề nuôi biển hiện đại

Chưa có đánh giá về bài viết

(TSVN) – Những mô hình nuôi biển quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao do Trung tâm Khuyến nông quốc gia triển khai tại nhiều địa phương ven biển đã và đang cho thấy hiệu quả rõ rệt, không chỉ về năng suất, lợi nhuận mà còn góp phần chuyển đổi sinh kế, giảm áp lực khai thác tự nhiên, bảo vệ môi trường biển và hướng tới phát triển nghề nuôi trồng hải sản bền vững.

Bước chuyển từ “ven bờ” ra “xa bờ”

Phát triển nuôi biển là một trong những hướng đi chiến lược để Việt Nam thực hiện mục tiêu trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, đúng như tinh thần Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Thay vì khai thác tự nhiên, việc chuyển sang nuôi trồng xa bờ, ứng dụng công nghệ hiện đại đang mở ra hướng phát triển mới cho kinh tế biển nước ta.

Theo định hướng, đến năm 2025, cả nước phấn đấu đạt 850.000 tấn sản lượng nuôi biển, kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD; và đến năm 2030 sẽ tăng lên 1,45 triệu tấn, giá trị 2 tỷ USD. Để hiện thực hóa mục tiêu này, các chương trình khuyến nông đang đóng vai trò “mũi nhọn” trong việc thử nghiệm, trình diễn và nhân rộng các mô hình nuôi biển công nghiệp, quy mô lớn, thân thiện môi trường.

Các đối tượng nuôi chủ yếu gồm cá biển (cá song, cá giò, cá vược, cá chim vây vàng), nhuyễn thể, giáp xác và rong biển. Trong đó, các loài cá biển có giá trị cao, thịt ngon, giàu dinh dưỡng, khả năng chống chịu tốt, thích hợp nuôi lồng xa bờ.

Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp Khánh Hoà bàn giao vật tư cho các hộ thực hiện mô hình nuôi cá mú trân châu bằng lồng HDPE. Ảnh: Nguyễn Cơ

Những “điểm sáng” từ các mô hình khuyến nông nuôi biển

Tại Khánh Hòa và Quảng Ngãi, mô hình nuôi cá giò thương phẩm trong lồng HDPE thể tích 2.700 m³ đã cho thấy hiệu quả vượt trội. Sau 9 tháng, tỷ lệ sống đạt trên 76%, năng suất bình quân 30,3 kg/m³, mang lại lợi nhuận gần 200 triệu đồng/lồng, cao gấp hơn 3 lần so với nuôi truyền thống. Đáng chú ý, mô hình này không chỉ tạo sinh kế ổn định mà còn góp phần chuyển đổi nghề khai thác sang nuôi trồng, giúp ngư dân gắn bó với biển theo hướng bền vững hơn.

Với quy mô 4.000 m³ tại Quảng Ninh và Khánh Hòa, mô hình nuôi cá chim vây vàng trong lồng HDPE đã mang lại năng suất 19,1 kg/m³, lợi nhuận tăng 13% so với hộ dân ngoài mô hình. Mô hình được đánh giá cao về tính an toàn, giúp hạn chế rủi ro thiên tai, giảm ô nhiễm môi trường và cho ra sản phẩm đạt chuẩn vệ sinh thực phẩm, mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường cao cấp.

Cũng trong chuỗi phát triển nghề nuôi biển, mô hình sản xuất giống cá chim vây vàng tại Nghệ An và Khánh Hòa đã đạt bước tiến lớn. Chỉ sau 7 tháng, 22 cặp cá bố mẹ đã sinh sản được hơn 51 vạn cá giống sạch bệnh, mang lại lợi nhuận gần 940 triệu đồng/vụ, tỷ suất lợi nhuận 36,5%. Việc chủ động nguồn giống chất lượng giúp giảm phụ thuộc vào khai thác tự nhiên, tạo nền tảng cho phát triển nuôi biển bền vững lâu dài.

Tại Khánh Hòa và Kiên Giang, mô hình nuôi cá mú trân châu bằng lồng HDPE thể tích 4.500 m³ cho kết quả khả quan: tỷ lệ sống đạt 82%, năng suất 14,3 kg/m³, lợi nhuận trên 200 triệu đồng/1.000 m³. Toàn bộ sản phẩm đều được ký kết tiêu thụ với doanh nghiệp, đảm bảo đầu ra ổn định. Không chỉ đem lại thu nhập cao hơn 20% so với ngoài mô hình, mô hình này còn giúp ngư dân nắm vững kỹ thuật, làm chủ quy trình nuôi biển hiện đại và có thể nhân rộng tại các vùng ven biển, đảo xa.

Với 25.600 m² diện tích nuôi tại Quảng Ninh và Khánh Hòa, mô hình nuôi ngao hai cùi gắn với tiêu thụ sản phẩm đạt năng suất 37,5 tấn/ha, lợi nhuận khoảng 900 triệu đồng/ha. Loài ngao ăn lọc tự nhiên, giúp làm sạch môi trường nước, đồng thời dễ nuôi, ít rủi ro trước bão lũ. Đây được xem là mô hình “xanh”, phù hợp để nhân rộng ở vùng ven biển và hải đảo, góp phần chuyển dịch nghề từ khai thác sang nuôi trồng bền vững.

Hướng đi mới

Các mô hình khuyến nông nuôi biển không chỉ dừng lại ở trình diễn kỹ thuật mà đang mở ra hệ sinh thái sản xuất – tiêu thụ khép kín. Tại Quảng Ninh, Khánh Hòa, nhiều mô hình đã gắn kết với du lịch trải nghiệm biển, thu hút khách tham quan, giúp nâng giá trị sản phẩm và quảng bá thương hiệu địa phương.

Trung tâm Khuyến nông quốc gia xác định hướng phát triển tiếp theo là mở rộng hợp tác công – tư (PPP) trong khuyến nông, huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, viện nghiên cứu và người dân. Song song, việc đào tạo kỹ thuật, tập huấn về an toàn môi trường, quản lý chất lượng và truy xuất nguồn gốc được triển khai mạnh mẽ, giúp ngư dân chuyển từ “nghề cá truyền thống” sang “kinh tế biển hiện đại”.

Để ngành nuôi biển thực sự trở thành trụ cột của kinh tế biển Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ như: Đẩy mạnh nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cao, áp dụng lồng HDPE, vật liệu composite, giám sát môi trường bằng công nghệ số, sử dụng chế phẩm sinh học thay thế hóa chất.

Bên cạnh đó, tích cực mở các lớp đào tạo ngư dân và cán bộ khuyến nông, hướng tới tư duy “kinh tế nông nghiệp”, sản xuất hàng hóa có truy xuất nguồn gốc, gắn với thị trường tiêu thụ.

Phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác nuôi biển, hình thành chuỗi giá trị khép kín từ giống – nuôi – chế biến – tiêu thụ; đồng thời xây dựng thương hiệu, chứng nhận VietGAP, quảng bá sản phẩm ra thị trường quốc tế.

Tăng cường hợp tác công – tư (PPP), kết nối doanh nghiệp cung cấp giống, vật tư, tiêu thụ sản phẩm, giúp nghề nuôi biển phát triển hiệu quả, giảm rủi ro và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Từ những mô hình điểm khuyến nông bước đầu, nghề nuôi biển Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ, từng bước thoát khỏi quy mô nhỏ lẻ để hướng đến sản xuất công nghiệp, bền vững.

Sự kết hợp giữa công nghệ – con người – thị trường đang hình thành nền tảng cho “ngành công nghiệp nuôi biển hiện đại”, không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, giữ gìn sinh kế bền vững cho cộng đồng ven biển và khẳng định vị thế quốc gia biển mạnh của Việt Nam.

Thùy Khánh

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!