Kiên Giang: Ðưa kinh tế biển trở thành ngành kinh tế chủ lực của Kiên Giang

Chưa có đánh giá về bài viết

Là tỉnh có vị trí trọng điểm đối với nghề cá ở Ðồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) và cả nước, Kiên Giang có khả năng phát triển ngành kinh tế thủy sản cả trong đất liền, trên biển và hải đảo, trong đó có thế mạnh rất lớn về tài nguyên biển. Diện tích vùng biển lớn thứ 3 so với cả nước, Kiên Giang xác định kinh tế biển là hướng đi chủ lực thời gian tới.

Nuôi cá lồng trên biển của tỉnh Kiên Giang đang được tỉnh chú trọng mở rộng. Ảnh: CTV

Phát huy tiềm năng

Kiên Giang có ngư trường rộng hơn 63.200 km2, với hơn 140 đảo biển với tổng chiều dài bờ biển (không tính bao quanh các đảo) trải dài trên 200km, tiếp giáp với một số nước trong khu vực như Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia… là môi trường rất thuận lợi cho việc bảo tồn, phát triển nguồn lợi thủy sản và nuôi biển. Xác định kinh tế biển là hướng phát triển chủ lực tương lai, UBND tỉnh Kiên Giang đã ban hành Quyết định số 3214/QÐ-UBND ngày 31-12-2020 về phê duyệt Ðề án phát triển nuôi biển bền vững đến năm 2030. Mục tiêu là phát triển nghề nuôi biển theo hướng công nghiệp, hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái, gắn với phát triển du lịch và đảm bảo an ninh quốc phòng góp phần tích cực tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh, tạo sức cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế biển, tăng thu nhập cho người dân.

Ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Kiên Giang, cho biết qua gần 4 năm thực hiện Ðề án, phát triển nuôi biển đã đạt một số kết quả tích cực. Năm 2023, nuôi cá lồng trên biển đạt 3.870 lồng, sản lượng thu hoạch 3.910 tấn, tốc độ tăng trưởng bình quân 1,65%/năm. Các đối tượng nuôi như cá bóp, cá mú, cá chim vây vàng, cá chẽm,… tại huyện Kiên Hải, thành phố Phú Quốc, một số xã đảo của huyện Kiên Lương và thành phố Hà Tiên. Diện tích nuôi nhuyễn thể ven biển đạt 23.282ha, sản lượng thu hoạch 96.327 tấn (chủ yếu là sò huyết, sò lông, hến biển, vẹm xanh và nghêu); nuôi trai cấy ngọc nhân tạo được duy trì ở thành phố Phú Quốc, với diện tích nuôi khoảng 100ha, sản lượng thu hằng năm trung bình khoảng 93.000 viên. Ðiểm nổi bật trong phát triển kinh tế biển của tỉnh là tập trung huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội vùng ven biển, hải đảo; bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, cải thiện đời sống cho người dân.

Ðể phát huy tiềm năng kinh tế biển, quy hoạch hệ thống cảng biển và hạ tầng cho kinh tế biển cũng được tỉnh chú trọng. Nhiều dự án công trình lớn thúc đẩy phát triển kinh tế đã hoàn thành đưa vào sử dụng như Cảng Hàng không Quốc tế Phú Quốc, cầu Cái Lớn và Cái Bé, hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé, lưới điện quốc gia ra các đảo Phú Quốc, Hòn Tre, Lại Sơn, Hòn Nghệ, Sơn Hải. Ðưa vào khai thác các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão Lình Huỳnh, Hòn Tre, Thổ Châu, An Thới, Xẻo Nhàu, đê chắn sóng Dương Ðông, hệ thống cấp điện và nước ngọt sinh hoạt các xã ven biển. Bên cạnh đó là hệ thống đường giao thông ven biển và trên các đảo Phú Quốc, Hòn Nghệ, Lại Sơn, Hòn Tre, Nam Du và An Sơn; hệ thống trường học, trạm y tế cho các xã ven biển, hải đảo… cũng được quan tâm đầu tư, góp phần phát triển kinh tế biển của tỉnh.

Bên cạnh đó, tỉnh Kiên Giang cũng thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào kinh tế biển. Theo Sở Kế hoạch và Ðầu tư tỉnh Kiên Giang, đến nay tỉnh đã cấp chủ trương đầu tư cho 4 dự án, với tổng số vốn 695 tỉ đồng, diện tích mặt nước biển là 2.197,3ha. Ðồng thời tiếp nhận 155 hồ sơ đề xuất dự án nuôi biển của các doanh nghiệp và cá nhân ở các huyện Hòn Ðất, Kiên Lương, Kiên Hải, An Biên và thành phố Phú Quốc. Tuy kết quả bước đầu khá thành công nhưng kết quả này vẫn còn rất khiêm tốn so với tiềm năng lợi thế của tỉnh. Kinh tế biển của Kiên Giang vẫn đối mặt với những thách thức và khó khăn. Việc triển khai thực hiện dự án đầu tư nuôi biển và đi vào hoạt động, các tổ chức, cá nhân phải thực hiện nhiều thủ tục có liên quan và qua nhiều cơ quan để đề xuất chủ trương đầu tư, nên mất nhiều thời gian dẫn đến một số dự án triển khai chậm so với dự kiến.

Ðịnh vị lại không gian phát triển

Mới đây, tại hội nghị Giải pháp phát triển nghề nuôi biển tỉnh Kiên Giang đến năm 2025, định hướng 2030 do Bộ NN&PTNT cùng UBND tỉnh Kiên Giang tổ chức, các đại biểu và các cơ quan chức năng đã nhận định, khó khăn lớn nhất của tỉnh ngoài nguồn lực đầu tư cho hạ tầng, thì hiện nay Chính phủ chưa ban hành quy hoạch không gian biển quốc gia, chưa xác định đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm tại các đảo để làm cơ sở triển khai giao khu vực biển theo Nghị định số 11/2021/NÐ-CP ngày 10-2-2021 của Chính phủ. Tỉnh cũng chưa xác định các khu vực nuôi cụ thể nên cũng khó khăn trong mời gọi doanh nghiệp. Thủ tục rườm rà, có những hồ sơ xin nuôi biển nộp gần 5 năm vẫn chưa được phê duyệt, do phải xin ý kiến của nhiều bộ, ngành Trung ương.

Phát biểu tại hội nghị Giải pháp phát triển nghề nuôi biển tỉnh Kiên Giang, ông Nguyễn Thanh Nhàn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, cho biết: Quy hoạch không gian biển Quốc gia, Quy hoạch tổng thể khai thác sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ chưa được phê duyệt và thủ tục giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển theo Nghị định số 11/2021/NÐ-CP của Chính phủ phải xin ý kiến nhiều Bộ, ngành nên công tác triển khai giao khu vực biển còn nhiều vướng mắc. Tỉnh đã phê duyệt Ðề án phát triển nuôi biển, nhưng một số địa phương chưa xây dựng kế hoạch triển khai. Việc xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển còn chậm. Hạ tầng phục vụ nuôi biển hiện nay vừa yếu vừa thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.

Tỉnh đã khuyến khích triển khai các mô hình chuyển đổi từ nuôi lồng truyền thống sang lồng nhựa HDPE, kết quả đã chuyển đổi được 69 lồng, với quy mô 3.531m3, mô hình này đem lại hiệu quả với năng suất trung bình 16,02 kg/m3, cao hơn lồng gỗ truyền thống 4-5 kg/m3 nhưng suất đầu tư cao, không phải doanh nghiệp, cá nhân nào cũng có thể chuyển đổi. Theo ông Hoàng Ngọc Bình, Giám đốc vận hành Công ty TNHH Thủy sản Australis Việt Nam, công ty đang thử nghiệm nuôi cá chẽm tại đảo Nam Du, kết quả khả quan, nhưng khó khăn là con giống phải vận chuyển từ Khánh Hòa vào. Nếu hậu cần đảm bảo, thủ tục đầu tư thuận lợi, công ty có kế hoạch nuôi 30.000 tấn cá chẽm tại Kiên Giang để xuất khẩu sang EU, Hoa Kỳ…

Theo Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang, kế hoạch đến năm 2030, số lồng nuôi biển là 14.000 và diện tích nuôi ven bờ đạt 26.900ha. Ðể đạt mục tiêu đề ra, ông Trần Ðình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản, cho rằng, Kiên Giang cần rà soát lại tất cả diện tích có thể nuôi biển được ở địa phương để từ đó xây dựng quy chuẩn lồng bè nuôi, lựa chọn vật liệu, mô hình mới. Chú trọng phát triển khoa học công nghệ, tăng cường bộ máy quản lý từ địa phương đến tỉnh, ngăn chặn vùng nuôi tự phát không theo quy hoạch, hỗ trợ nguồn vốn và trang thiết bị công nghệ mới như HDPE, để phát triển bền vững.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Ðức Tiến đánh giá cao về tiềm năng, lợi thế nghề nuôi biển của tỉnh Kiên Giang. Tỉnh cần tuân thủ các quy hoạch ngành, quy hoạch quốc gia về phát triển nông nghiệp để có hệ sinh thái trong nông nghiệp bền vững. Ðể có hệ sinh thái thì phải có doanh nghiệp lớn đầu tư dẫn dắt, “Nhà nước tạo sàn diễn, khoa học đi tiên phong, doanh nghiệp có tài, nông dân hưởng lợi”. Ngoài ra, cần chú trọng đầu tư hoàn thiện cho hạ tầng nông nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao mới có thể thay đổi diện mạo nghề nuôi biển. Các vấn đề về thể chế vượt thẩm quyền sẽ kiến nghị các cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết, đảm bảo sự phát triển cho các địa phương.

Gia Bảo – Kiều Nhung

Nguồn: Báo Cần Thơ

Bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Hãy là người đầu tiên bình luận trong bài
error: Content is protected !!