(TSVN) – Rong biển không chỉ có giá trị kinh tế cao mà còn được xem là nguyên liệu xanh, có thể hấp thụ carbon từ khí quyển và trung hòa axit đại dương. Chính bởi vậy, Bộ NN&PTNT đang khuyến khích đưa rong biển trở thành đối tượng nuôi trồng thủy sản chủ lực.
Tại Việt Nam, hiện có hơn 827 loài rong tự nhiên, trong đó 88 loài có giá trị kinh tế. Rong chia làm 3 nhóm loài chính gồm rong sụn, rong câu, rong nho. Năm 2023, tổng diện tích trồng rong biển khoảng 16.500 ha, sản lượng 150.000 tấn, tập trung ở một số địa phương như Quảng Ninh, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Kiên Giang. Lợi nhuận từ trồng rong nho đạt khoảng 150 – 200 triệu/ha; trồng rong sụn khoảng 60 – 80 triệu đồng/ha.
Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân nhận định, chi phí đầu tư để nuôi rong biển rất thấp, tuy nhiên đây lại là ngành hàng có giá trị kinh tế cao và góp phần bảo vệ môi trường. “Trồng rong đem lại ích lợi đa chiều, giúp hấp thu khí carbon dưới biển. Có giống rong hấp thu CO2 gấp 20 lần. Có giống rong sau khi chiết xuất các chất quan trọng, phần bã có thể chế biến thành thức ăn cho bò sữa. Đây là một trong những thứ mà chúng tôi đang ấp ủ để nâng cao giá trị cho rong biển. Tuy nhiên, chúng ta đang đi chậm, nếu nhìn sang các nước xung quanh, điển hình như Indonesia, đã có những doanh nghiệp nhanh chân hơn khi đầu tư vào ngành nuôi rong và chế biến rong”. Cục trưởng Trần Đình Luân khẳng định, tương lai ngành rong sẽ phát triển rất mạnh.
Cùng chung quan điểm, ông Phạm Anh Tuấn, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho rằng, chúng ta cần quan tâm đến tiềm năng từ rong biển, hiện tại hầu như đang bị lãng quên, ít được quan tâm hơn so với các đối tượng như cá hoặc giáp xác. Rong biển có lợi thế bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh, đáp ứng nhu cầu thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón. Do vậy, theo ông Tuấn, để hướng đến nuôi biển bền vững, cần đẩy mạnh các đối tượng giàu tiềm năng như rong biển.
Ngành hàng rong biển của nước ta hiện tại đang có nhiều cơ hội để phát triển bởi đây là lĩnh vực đang nhận được sự quan tâm ngày càng cao, do quy mô thị trường thương mại toàn cầu dự kiến sẽ được mở rộng với tốc độ khoảng 10,8% mỗi năm.
Để rong biển phát triển ổn định, Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân cho rằng, thời gian tới cần mở rộng nghiên cứu, chọn tạo các giống rong chất lượng, phục vụ cho những mục đích khác nhau.
“Chúng ta có diện tích mặt biển lớn, nhiều giống rong chất lượng là điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát triển vùng trồng rong biển. Do đó, mục tiêu phát triển vùng trồng rong lên đến 900.000 ha hoàn toàn khả thi. Có những khu vực phải tính toán đến việc chỉ trồng rong và khai thác rong, nhưng rất nhiều khu vực khác, trồng rong có thể kết hợp với các đối tượng nuôi thủy sản khác để phát huy giá trị cao hơn”. Cục trưởng Luân gợi mở.
Nhắc đến mục tiêu xa hơn, khi nuôi trồng rong biển hướng đến bán tín chỉ carbon, ông Luân cho hay, khi diện tích trồng phát triển tới một mức độ nhất định, chúng ta sẽ phải tính đến phương án đồng hành với các tổ chức quốc tế để tính toán việc bán tín chỉ từ việc trồng rong. “Đây là một việc làm khả thi. Khi chúng tôi đặt vấn đề với các tổ chức quốc tế, họ thấy rằng việc làm này là cần thiết và có thể làm được, họ cũng mong muốn thực hiện điều này để giúp cho người dân có cuộc sống tốt hơn và đặc biệt phát triển mạnh mô hình trồng rong để bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học”. Cục trưởng chia sẻ thêm.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Lê Bền, Phó giám đốc Công ty TNHH Trí Tín kiến nghị Bộ NN&PTNT cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển đối tượng nuôi trồng này. Ngoài ra, Bộ NN&PTNT và các Bộ ngành chức năng liên quan sớm ban hành bộ tiêu chí báo cáo về hấp thụ và phát thải CO2 của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nói chung và rong biển nói riêng, giúp các doanh nghiệp sớm tham gia vào thị trường tín chỉ carbon.
Trồng rong nho có mái che ở Khánh Hòa. Ảnh: ST
Các chuyên gia đánh giá tiềm năng diện tích trồng rong lớn và ngày càng tăng, hơn nữa vùng tiềm năng có thể thay đổi theo thời gian. Nếu như năm 1997, ở Vân Đồn (Quảng Ninh) không trồng được rong thì tới năm 2022 rong biển đã phát triển tốt tại đây. Do đó, để mở rộng nuôi rong biển, ông Nguyễn Văn Nguyên, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Hải sản đề xuất 5 giải pháp: Ưu tiên quy hoạch trồng rong biển; Hỗ trợ nâng cao hiệu quả nghề trồng rong; Chọn giống, nhập giống cải tạo giồng rong câu; Tăng cường kết nối mạng lưới sản xuất rong biển; Tăng cường đầu tư nghiên cứu.
Trong chiến lược phát triển ngành thủy sản, Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, sản lượng rong, tảo biển các loại đạt khoảng 180.000 tấn; năm 2030 là 500.000 tấn. Để đạt được các mục tiêu đó, thời gian tới, ngành rong biển nước ta sẽ tập trung phát triển nuôi trồng gần bờ các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận với đối tượng chính là rong nho, rong câu chỉ vàng, rong sụn. Đồng thời, phát triển nuôi trồng xa bờ tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Đối tượng trồng chính là rong sụn và giống nhập.
Cùng với đó, để thúc đẩy ngành hàng rong biển phát triển, Bộ NN&PTNT chỉ đạo Cục Thủy sản cần sớm phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ và các chuyên gia thủy sản xây dựng chiến lược và kế hoạch của ngành hàng này, đồng thời xúc tiến các thủ tục thành lập hiệp hội ngành hàng để cùng nhau kiến tạo không gian, giá trị mới cho rong biển. Trên cơ sở này, Bộ NN&PTNT sẽ báo cáo, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ để chính thức đưa rong biển thành ngành hàng chính của lĩnh vực thủy sản.
Thùy Khánh